30 November 2009

Sau Khi Liên Xô Giải Thể, Phong Trào Cộng Sản Còn Lại Những Gì ?


Ngày nay ý thức về nhân phẩm và nhân quyền đã được phổ biến rộng rãi cùng khắp mọi nơi trên tòan cầu. Và quần chúng nhân dân đang mạnh dạn muôn người như một, quyết tâm đứng lên thực hiện quyền tự chủ của mình thông qua hàng vạn, hàng triệu những tổ chức độc lập, phi-chánh phủ, bất vụ lợi nhằm giải quyết các nhu cầu chính đáng và thiết thực của chính mình. Họ không còn để cho người cộng sản nắm giữ mãi cái “độc quyền yêu nước để mà tự tung tự tác” như xưa nay được nữa. Bởi thế mà chúng ta có quyền lạc quan cho tương lai tươi sáng của nhân lọai, cũng như cho dân tộc Việt nam yêu quý của mình vậy.

Đòan Thanh Liêm
(What’s left of the Communist Movement?)



Sự sụp đổ bức tường Bá linh vào năm 1989, và sự giải thể của Liên bang Xô viết vào năm 1991 liền sau đó, đã đánh dấu một bước ngoặt rõ rệt của lịch sử thế giới vào cuối thế kỷ XX. Sau 20 năm tức là khỏang cách của một thế hệ, chúng ta đã có đủ thời gian để quan sát và lượng định về sự chuyển biến của cục diện thế giới trong thời đại “hậu cộng sản” vào đầu thế kỷ XXI hiện nay.

1/ Trước hết, là không còn một cơ cấu tổ chức nào mà có thể được gọi là “Phong trào Quốc tế Cộng sản” (World Communist Movement) do Liên Xô lãnh đạo như hồi thập niên 1960-70 nữa. Và do đó cũng không còn có một khối cộng sản để đối địch với khối tư bản; mà cuộc chiến tranh lạnh giữa Nga và Mỹ, phát sinh từ ngay sau lúc chiến tranh thứ hai chấm dứt cũng tự động mà tiêu tan luôn. Hậu quả là hiện nay, thế giới chúng ta không còn phải lo sợ về một cuộc chiến tranh tòan cầu do sự tranh chấp giữa 2 siêu cường Liên Xô và Mỹ, giống như trường hợp đối đầu nảy lửa gay cấn giữa 2 lãnh tụ Kruschev và Kennedy trong cuộc khủng hỏang Cuba hồi năm 1962 nữa.

Mà cũng chẳng còn một chủ thuyết bao gồm tòan diện các tín điều như tổ chức “Đệ tam quốc tế” (Comintern) vẫn truyền bá hồi thập niên 1930-40 nữa rồi. Trên thế giới ngày nay, chẳng còn một lãnh tụ đảng cộng sản nào mà còn dương dương xưng tụng “ lý thuyết về ba dòng thác cách mạng” như ông Lê Duẫn đã từng dõng dạc tuyên bố tại Việt nam sau hồi tiến chiếm được miền Nam năm 1975. Ý cuả nhà lãnh đạo cộng sản Việt nam muốn nói là : Lực lượng cách mạng đã toàn thắng ở trong khối xã hội chủ nghiã, tại các nước trong thế giới thứ ba, và đang dâng lên cả trong nội bộ các nước tư bản nưã. Vì thế mà họ mới trưng ra khắp nơi các khẩu hiệu đến là nực cười như : “Chủ nghiã Marx – Lénine bách chiến bách thắng”, “Chủ nghiã xã hội là đỉnh cao của trí tuệ loài người” v.v...

Việc thêm cái mục “Tư tưởng Mao Trạch Đông” hay “Tư tưởng Hồ Chí Minh” gắn liền vào với chủ thuyết kinh điển Marx-Lénine, thì lại càng làm mờ nhạt thêm cái căn bản lý thuyết mà vốn là rường cột của phe xã hội chủ nghĩa cho đến ngay thập niên 1980 gần đây mà thôi.

2/Không còn bóng dáng nào của chủ nghĩa cộng sản trên tòan thể các quốc gia thuộc Âu châu ngày nay nữa, kể cả tại các quốc gia vốn xưa kia nằm trong Liên bang Xô viết.

Điều này rất đáng chú ý, bởi lẽ chủ thuyết Marx-Engels cũng như cuộc cách mạng Bolshevik đều được phát sinh ra tại Âu châu, và cho đến giữa thập niên 1980, thì có đến một nửa Âu châu vẫn còn nằm trong khối cộng sản do Liên Xô lãnh đạo. Ta sẽ phân tích chi tiết tình hình này ở Âu châu hiện nay như sau đây :

A/ Tại Tây Âu : Trước đây vào thập niên 1950 – 60, các đảng cộng sản ở Pháp và Italia rất là hùng hậu mạnh mẽ, có lúc thu được đến trên 30% phiếu bầu cuả cử tri toàn quốc, khiến cho họ đã nhiều lần khuynh loát được chính quyền tại các nước này. Ấy thế mà hiện nay, các đảng này đã tuột dốc thê thảm, hầu như chỉ còn là một cái bóng mờ nhạt trong đời sống chính trị quốc gia. Mặc dầu họ đã công khai từ bỏ lập trường “tranh đấu giai cấp” và xoá bỏ chủ trương “vô sản chuyên chính, baọ lực cách mạng”, thì các đảng cộng sản này cũng vẫn chẳng còn thu hút được sự ủng hộ cuả quần chúng như trước đây nưã. Còn tại các nước khác như Anh quốc, Bỉ, Hoà lan, v.v..., thì các đảng cộng sản tuy vẫn tồn tại, nhưng hầu như không còn khả năng lôi cuốn được mấy ai mà còn phấn khởi tin tưởng hay tham gia sinh hoạt với đường lối “cách mạng vô sản” nưã.

Nhân tiện cũng xin ghi chú thêm là : Vào hồi thập niên 1970 trở đi, các đảng cộng sản tại Tây Âu, đặc biệt tại Italia và Tây ban nha đã có một đường lối khá cởi mở, thông thóang được mệnh danh là “cộng sản Âu châu (Euro – communism). Đường lối này cũng tương tự như chủ trương của giới lãnh đạo cộng sản Tiệp khắc trong vụ “Mùa xuân Praha năm 1968” với khẩu hiệu “Xã hội chủ nghĩa với bộ mặt nhân bản” (socialism with human face). Các nhà nghiên cứu gần đây đã đánh giá rằng chủ trương nhân bản thông thóang này đã có sức thuyết phục trong nội bộ giới lãnh đạo Xô Viết và nhờ đó mà Liên Xô đã không ra tay can thiệp vào phong trào đòi tự do dân chủ ở Đông Âu, khiến đưa đến sự sụp đổ của cộng sản ở vùng này, và rồi kéo theo cả sự tan vỡ tòan bộ của hệ thống Xô viết. Như vậy, ta cũng nên ghi điểm son cho công trạng của Euro-communism trong việc gián tiếp góp phần vào việc xóa bỏ cộng sản ở Đông Âu và làm tan rã đế quốc Liên Xô.

B/ Tại Đông Âu : Kể từ cuối năm 1989, các nước Đông Âu đều đã rũ bỏ hoàn toàn chế độ cộng sản và tiến hành được công cuộc chuyển hoá dân chủ (democratic transition) một cách thật êm thắm ngoạn mục. Tất cả các nước này đều đã thiết lập được một chế độ chính trị đa nguyên đa đảng, xây dựng được một nền kinh tế thị trường rất thành công vững mạnh. Và đặc biệt đã hội nhập được với Cộng đồng Âu châu, cũng như gia nhập được với khối liên minh phòng thủ Nato. Nhờ vậy mà các nước cưụ cộng sản này đã bắt kịp được với trào lưu tiến bộ về mọi mặt cuả các quốc gia dân chủ ở Tây Âu. Khu vực xã hội dân sự gồm hàng ngàn, hàng vạn các tổ chức phi chánh phủ, bất vụ lợi, cùng với các tổ chức văn hoá-giáo dục-xã hội xuất phát từ các tôn giáo đã được phục hồi một cách vững chắc, khiến tạo được tiền đề cho một “nền dân chủ tham gia” cuả quảng đại quần chúng khắp nơi (a participatory democracy). Đây rõ rệt là một quá trình dân chủ hoá đích thực và dứt khoát không thể nào đảo ngược lại, để trở về với thể chế độc tài toàn trị cộng sản như trước đây được nưã (an irreversible process).

Ta có thể đánh giá ngắn gọn được rằng cái tiến trình dân chủ hóa này đã thành công xuất sắc tại Tiệp khắc, Hungary, Balan và đặc biệt là tại nước Đức nữa. Bởi lẽ Tây Đức đã hết lòng cưu mang đón nhận người anh em từ bên phía Đông về hiệp nhất với mình. Và sự kiện vị Thủ tướng hiện nay là Bà Angela Merkel vốn xuất thân từ bên Đông Đức là một biểu hiện tuyệt vời của sự thống nhất nước Đức trong tinh thần hiếu hòa và tự do dân chủ vốn đã ăn rễ lâu đời trong truyền thống văn hóa của Âu châu.

C/ Tại chính nước Nga và các nước thuộc Liên bang Xô viết cũ, thì cũng lại không hề có dấu hiệu nào là chế độ cộng sản còn có thể “tái xuất hiện”.

Hiện tình chính trị xã hội trong khu vực này, mà xưa kia người cộng sản khắp nơi trên thế giới vẫn coi như “thành trì cuả chủ nghiã xã hội”, lại càng đáng cho chúng ta chăm chú theo dõi quan sát chi tiết rành mạch hơn. Như ta đã biết kể từ năm 1991, Liên Xô đã bị chia thành 15 nước cộng hoà riêng biệt, trong đó nước Nga là môt nước lớn nhất và là đại diện kế thưà cuả Liên bang Xô viết đã được chính thức khai tử vào ngày 25 tháng 12 năm 1991. Kể từ ngày đó nước Nga đã phải rất vất vả khó nhọc với sự “thanh toán di sản” cuả Liên bang đối với 14 nước cộng hoà kia. Chỉ riêng với số 25 triệu người thuộc sắc tộc Nga mà lại còn sinh sống phân tán ở các nước cộng hoà biệt lập đó, thì đã là một việc phức tạp làm điên đầu cho giới lãnh đạo cuả nước đàn anh này rồi. Và những cuộc căng thẳng xung đột liên tục có khi biến thành chiến tranh đẫm máu như ở Chechnya hồi năm 1994-95, hay mới đây tại Georgia đã và con đang làm cho nước Nga phải liên miên đối phó với những hậu quả rất ư nặng nề cuả cái quá khứ do “đế quốc đỏ” để lại cho mình rồi. Mặc dầu đảng cộng sản vẫn tồn tại ở nước Nga, nhưng mới đây trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế tài chánh vào năm 2008, thì đảng này cũng không hề dám động tĩnh gì để khai thác “thời cơ bất ổn” này, nhằm lật lại thế cờ hầu đưa đảng cộng sản trở lại nắm chánh quyền như trước kia được nưã.

Trường hợp của Liên bang Nam Tư được tách ra thành 6 nước riêng biệt, thì cũng tương tự như của Liên Xô, tức là sự “tranh chấp về chủng tộc” mới là đặc tính chính yếu của các quốc gia, chứ không phải là cuộc “tranh đấu giai cấp” như trong kinh điển của chủ nghĩa Marxist (ethnic conflict, chứ không phải là class struggle). Lại nữa, riêng tại nước Nga hiện nay thì đã có đến cả nửa triệu các tổ chức phi chánh phủ (NGO) mới được thành lập, với khả năng đáp ứng kịp thời đối với nhu cầu thực tiễn thường ngày của người dân; đó là một thay thế rất hiệu quả cho chánh sách an sinh xã hội mà trước đây chánh quyền cộng sản vẫn tự hào cho đó là một điểm son của chế độ.

Kết cục là mặc dầu bản thân người lãnh đạo nước Nga là Vladimir Putin vốn xuất thân từ lò mật vụ KGB, thì ông ta cũng đã chẳng thể tiến hành việc tái lập chế độ cộng sản được, dù ông có lề lối cai trị với bàn tay sắt của một nhà độc tài chuyên chế như nhiều người vẫn phê phán về ông.

Còn về phần 14 quốc gia khác mà được tách ra từ Liên Xô, thì mối ưu tư về việc củng cố chủ quyền quốc gia cho mỗi nước của mình lại mới chính là yếu tố nòng cốt để xây dựng và phát triển sự thịnh vượng của đất nước. Và sự xóa bỏ chủ nghĩa cộng sản tại các quốc gia này rõ rệt là một sự kiện lịch sử dứt khóat, mà điển hình nhất là tại 3 nước cộng hòa vùng Baltic là Estonia, Latvia và Lithuana.

Đó là tình hình hiện nay tại khu vực được coi như là quê hương của cuộc Cách mạng Tháng Mười do người cộng sản Bolshevik khởi xướng thành công từ năm 1917 dưới sự lãnh đạo của Lénine.

3/ Chỉ còn lại có 5 quốc gia sau đây là do đảng cộng sản giữ độc quyền lãnh đạo. Đó là 4 nước ớ Á châu, gồm có Trung quốc, Việt nam, Bắc Triều tiên và Lào quốc. Và một nước khác ở Châu Mỹ La tinh, đó là Cuba.

Nói chung thì tuy do đảng cộng sản còn nắm giữ quyền bính, nhưng tuỳ theo mỗi nước mà chế độ cộng sản cũng đã “đổi màu” nhiều rồi, không còn tính cách sắt máu khắc nghiệt như cách nay vài ba chục năm nưã. Họ theo đúng khẩu hiệu “Đổi mới hay là Chết” để mà thích nghi với tình trạng biến chuyển cuả thời đại, hầu có thể duy trì được sự tồn tại cuả mình.

Ta sẽ lần lượt xét đến trường hợp riêng biệt cuả từng nước một trong số 5 quốc gia này.

A/ Trước hết là Bắc Triều Tiên, được coi là một nước cộng sản quá khích, hung hãn, độc ác và tàn bạo nhất trên thế giới ngày nay.Tính chất phong kiến hủ lậu còn rất nặng nề do việc “cha truyền, con nối”, bắt đầu từ Kim Nhật Thành trao cho con là Kim Chính Nhất nắm giữ quyền lãnh đạo tại xứ sở này. Và bây giờ Kim Chính Nhất lại đang chuẩn bị “truyền ngôi” cho một người con của mình; như vậy là sắp bắt đầu đến thế hệ thứ ba của dòng họ Kim tiếp nối giũ quyền thống trị tại một nước vần được coi là giữ vững truyền thống cách mạng cộng sản.

Với chế độ sắt máu, khắc nghiệt, nền kinh tế lẹt đẹt không sao phát triển được, khiến cho dân chúng đói khổ cùng cực, đến nỗi phải liều mình vượt biên giới để thóat qua Trung quốc tìm cách kiếm ăn. Một số rất ít có may mắn đào thóat qua được với bà con ở phía Nam Triều Tiên, để mà làm lại cuổc đời hầu có được một cuộc sống xứng đáng với phẩm giá con người. Dân thì đói khổ lầm than như vậy, mà giới lãnh đạo ở xứ này vẫn cứ ngoan cố phung phí ngân sách, tài sản quốc gia vào công việc chế tạo võ khí rất đắt tiền, cụ thể là kho võ khí hạch tâm để hù dọa, làm yêu sách đối với Mỹ, Nhật, Đại Hàn… nhằm tống tiền, đòi viện trợ thực phẩm, nhiên liệu vật liệu đủ mọi thứ. Cái tác phong “ăn vạ kiểu Chí Phèo “ này đã khiến cho công luận thế giới liệt kê Bắc Triều Tiên vào hàng ngũ mấy “quốc gia côn đồ” (rogue state).

Nhưng mà về lâu về dài, cứ cái đà kinh tế tụt hậu bết bát như hiện nay, thì Bắc Triều Tiên không thể làm sao cạnh tranh được với sự phồn thịnh rất vững chắc của Nam Triều Tiên với dân số đông đảo gấp quá 2 lần, mà lợi tức tính theo đầu người thì lại gấp mấy chục lần. Tình trạng này cũng y hệt như giữa Đông Đức và Tây Đức cách nay mấy chục năm, trước khi bức tường Bá linh sụp đổ.

B/ Trường hợp của Lào quốc, một nước cộng sản hiền lành nhất.Là một nước nhỏ với dân số có chừng 8 triệu, Lào bị Việt nam khống chế và cũng được Trung quốc chèo kéo, o bế. Tuy vậy chế độ cộng sản ở đây được coi là bớt khắc nghiệt nhất, trái hẳn với ở Bắc Triều Tiên. Người dân Lào vẫn còn giữ được lề lối bình thản, hiền hậu theo ảnh hưởng sâu đậm cuả Phật giáo.Sự gần gũi về văn hoá, ngôn ngữ, tôn giáo với dân tộc láng giềng Thái lan về phiá Tây về lâu dài có khả năng làm quân bình với ảnh hưởng cuả Việt nam và Trung quốc ở phiá Đông và Bắc. Và cái quá khứ nặng nề từ cuộc chiến tranh Đông Dương 1945 - 75 cũng lần hồi bị vượt qua trong viễn tượng nước Lào mỗi ngày thêm tiến triển với công cuộc hội nhập với cộng đồng điạ phương Đông Nam Á vậy.

C/ Trường hợp cuả nước khổng lồ Trung hoa với dân số 1,300 triệu đang trỗi dậy thành một siêu cường, nhờ sự thành công thần kỳ về kinh tế thương mại trong 30 năm qua, khiến cả thế giới phải chú tâm theo dõi. Rõ ràng là tính thực dụng truyền thống cuả dân tộc Đại Hán đã giúp họ thoát ra khỏi cơn mê loạn cuả cuộc cách mạng văn hoá cuả lãnh tụ Mao Trạch Đông ở vào tuổi cuối đời cuả ông hồi cuối thập niên 1960.Người kế vị Đặng Tiểu Bình đã phát biểu thật rõ ràng trong câu nói lịch sử : “ Mèo trắng hay đen thế nào cũng được, miễn là nó bắt được chuột”. Tức là ý ông muốn nói : Không cần câu nệ vào giáo điều cộng sản, mà điều quan trọng là làm sao phát triển kinh tế để đem lại sự ấm no cho dân tộc và sự cường thịnh cuả xứ sở. Và chỉ trong vài chục năm, với chính sách “mở cưả ra với bên ngoài, đặc biệt là với khối Âu Mỹ, Trung hoa đã gặt hái được những thành tựu xuất sắc vượt bậc nhờ ở sư thu hút được kỹ thuật tiến bộ và vốn liếng đầu tư khổng lồ từ khối đông đảo người Hoa kiều hải ngoại, cũng như cuả Nhật, Đại hàn, Mỹ và cả Tây Âu, đặc biệt là cuả Đài loan.

Cái sự thành công vĩ đại này đã củng cố cho điạ vị cuả giới lãnh đạo cộng sản ở Bắc kinh, nhưng mặt khác nó cũng làm nhẹ bớt đi tính chất khắc nghiệt tàn bạo cuả nạn giáo điều cuồng tín cố hưũ mà điển hình là cuả thời kỳ Mao Trạch Đông lãnh đạo. Dù vẫn còn bảo thủ với lối cai trị độc tài chuyên chế với sự bóp nghẹt tự do dân chủ, mà cụ thể là sự tàn sát Thiên An Môn năm 1989 và nhất là sự đàn áp môn phái Pháp Luân Công gần đây, cũng như sự mạnh tay kềm kẹp tại Tây Tạng, Tân Cương; thì đảng cộng sản vẫn chẳng ngăn cản được sự phát triển khu vực xã hội dân sự, đặc biệt là trong các đô thị đông đúc và thịnh vượng ở Trung hoa hiện nay. Và ngay cả trong hàng ngũ cán bộ đảng viên cộng sản, họ đã thâu nhận cả giới doanh nhân tư sản như là một thành phần quan trọng cần thiết cho sự xây dụng và phát triển quốc gia. Đường lối thực dụng trong công cuộc canh tân đổi mới này đã ảnh hưởng cả đến các đảng cộng sản đàn em, mà điển hình là cộng sản Việt nam mà ta sẽ phân tích trong mục tiếp liền theo đây.

D/ Kể từ khi Liên Xô tan vỡ, đảng cộng sản Việt nam phải quay về bám viú vào đàn anh Trung quốc, mà chỉ mới một thập niên trước đó họ đã tố cáo là một kẻ thù phương bắc với mộng “bá quyền nước lớn”, nhất là sau trận chiến tranh biên giới đầu năm 1979 mà Trung quốc gọi là “phải dậy cho Việt nam một bài học”. Giới lãnh đảo cộng sản Việt nam đã phải cay đắng nuốt nhục để xin làm hoà với đàn anh Trung quốc, mà hậu quả tai hại nhất là phải “dâng đất dâng biển cho Bắc kinh”. Việc này hiện đang là mối nguy cơ trầm trọng cho sự tồn vong cuả đất nước, khiến cho dân chúng càng thêm bất mãn với giới lãnh đạo già nua, hủ lậu và ngoan cố ở Hanoi.Rõ ràng là đảng cộng sản đã chỉ lo bảo vệ quyền lợi riêng tư cuả chính mình, chứ không phải là chăm sóc cho quyền lợi chính đáng cuả đất nước, cuả toàn thể dân tộc.

Nhưng mặt khác, sự đổi mới về kinh tế do chủ trương mở cưả ra với bên ngoài theo gương cuả Trung quốc thì đã đem lại cho Việt nam một sự thành công đáng kể khả dĩ có thể cứu vãn phần nào cho vị thế lãnh đạo cuả đảng cộng sản để vẫn giữ được quyền bính trong tay. Mặc dầu Hanoi vẫn tìm cách bưng bít thông tin, xiết chặt sự hoạt động cuả các tổ chức tôn giáo, cấm đoán các tổ chức chính trị văn hoá độc lập v.v..., thì họ cũng vẫn phải nhượng bộ để cho xã hội dân sự bắt đầu phát triển trong một số lãnh vực. Do vậy mà tính chất độc tôn, độc quyền cuả đảng cộng sản cũng bớt đi được sự cực đoan cứng rắn trước đây, khi họ mới tiến chiếm được miền Nam và chủ trương “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghiã”! Sự tranh đấu cho tự do dân chủ và nhân quyền cuả các thành phần trẻ ở trong nước trong những năm gần đây, mặc dầu bị đàn áp nặng nề, thì vẫn được tiếp diễn và được sự hưởng ứng mạnh mẽ cuả quần chúng, kể cả trong giới tôn giáo. Đó là một viễn tượng lạc quan cho tiến trình dân chủ hoá tại Việt nam ngày nay vậy.

E/ Trường hợp cuả Cuba và Châu Mỹ La tinh.

Chế độ cộng sản ở Cuba đã tồn tại được 50 năm. Và mặc dầu bị cắt hết nguồn viện trợ kể từ khi Liên Xô tan rã, Cuba vẫn còn đứng vững được với sự khâm phục và cổ võ cuả một số quần chúng tại châu Mỹ La tinh như là biểu tượng cuả anh chàng “ David tý hon” mà dám ra tay đối đầu thách thức với “anh khổng lồ Goliath là nước Mỹ” vốn xưa nay ít được thiện cảm cuả những nước nhỏ ở phiá Nam bán cầu.

Về kinh tế, Cuba cũng bị trì trệ như các nước cộng sản trước đây và lại không chịu đổi mới như Trung quốc, Việt nam. Phần lớn số ngọai tệ có được là do của các kiều bào từ hải ngọai gửi về cho thân nhân, hoặc do khách du lịch, chứ phần thu nhập nhờ xuất cảng cũng không được bao nhiêu. Nhưng Cuba có ưu điểm là duy trì được hệ thống chăm sóc y tế đại chúng tương đối khá vững chắc và hiệu quả. Nền giáo dục phổ thông cũng được chú trọng, mặc dầu ngân sách quốc gia cũng chẳng được dồi dào bởi lẽ năng suất kinh tế quá yếu kém. Mặt khác Cuba vẫn còn được một số chính quyền thiên tả và chống Mỹ như Venezuela chi viện giúp đỡ, để có thể còn giữ vững được cái biểu tượng là “anh hùng chống Mỹ” tại khu vực châu Mỹ La tinh. Nhưng nói chung, thì cái lý tưởng Marxist cực đoan đã bắt đầu suy yếu đi nhiều, chứ không còn hung hãn như hồi 30-40 năm trước nữa.

Còn tại khu vực tòan thê Châu Mỹ La tinh, thì sau khi chế độ thiên tả của Salvador Allende tại Chili bị thất bại năm 1973 và chế độ Sandinista thiên cộng sản ở Nicaragua sụp đổ vào đầu thập niên 1980, không còn một nước nào lại có khả năng biến thành một thứ “Cuba thứ hai” nữa. Cho nên công trình “xuất cảng cách mạng” do Fidel Castro và Che Guevara khởi xướng từ thập niên 1960 đã không thể nào thành công được tại khu vực Nam bán cầu, cũng như tại Phi châu như Angola, Mozambique, Ethiopia v.v…


4/ Để tóm lược lại, ta có thể ghi lại mấy nét chính yếu như sau :

- Thứ nhất : Thọat đầu số đông quần chúng đi theo cộng sản, đó là vì lý tưởng công bằng xã hội, chống đối việc giới chủ nhân khai thác bóc lột người lao động. Họ cũng tham gia công cuộc tranh đấu do người cộng sản tổ chức lãnh đạo nhằm chống thực dân đế quốc, bài trừ phong kiến địa chủ. Đó là giai đọan “cách mạng dân tộc dân chủ”. Nhưng đến khi thành công, nắm được chính quyền trong tay rồi, thì đảng cộng sản phát động giai đọan cách mạng sắt máu, dùng bạo lục để xây dựng nền “chuyên chính vô sản”, “diệt trừ giai cấp tư sản”, “thực hiện kinh tế chỉ huy để nắm giữ độc quyền về kinh tế”, “tiêu diệt tôn giáo”, “lọai trừ mọi đảng phái chính trị” v.v…, thì họ đã gây ra bao nhiêu tội ác, làm băng họai mọi tiềm năng của dân tộc, do đó mà đưa đến sự sụp đổ tan rã tòan thể phong trào cộng sản trên thế giới. Rõ rệt là “bạo phát, bạo tàn”, như cổ nhân vẫn thường nói.

- Cái vốn liếng uy tín mà giới lãnh đạo cách mạng tiên khởi tich lũy được trong giai đọan chống thực dân đế quốc, thì sau mấy chục năm độc tài tàn bạo sắt máu, đã bị tiêu tan lãng phí đến độ cạn kiệt hết tất cả rồi. Và càng về sau, thế hệ những người lãnh đạo cộng sản kế tiếp đã không thể nào lôi cuốn quảng đại quần chúng nô nức phấn khởi tham gia ủng hộ họ như trước đây được nữa. Vì thế mà bây giờ họ phải tìm cách “sửa sai, đổi mới” nhằm thích nghi được với hòan cảnh đã thay đổi tòan diện hiện nay. Mà đó thực chất cũng chỉ là những trò vá víu tạm bợ để kéo dài thời gian cho chế độ độc tài tòan trị mà thôi. Bởi vậy cho nên chúng ta có thể xác tín rằng “quá trình dân chủ hóa nhằm xây dựng một chế độ nhân bản và nhân ái là một xu thế tiến bộ tất yếu của thế kỷ XXI, mà không một đảng cộng sản nào có thể làm cản trở ngăn chặn được nữa “.

- Ngày nay ý thức về nhân phẩm và nhân quyền đã được phổ biến rộng rãi cùng khắp mọi nơi trên tòan cầu. Và quần chúng nhân dân đang mạnh dạn muôn người như một, quyết tâm đứng lên thực hiện quyền tự chủ của mình thông qua hàng vạn, hàng triệu những tổ chức độc lập, phi-chánh phủ, bất vụ lợi nhằm giải quyết các nhu cầu chính đáng và thiết thực của chính mình. Họ không còn để cho người cộng sản nắm giữ mãi cái “độc quyền yêu nước để mà tự tung tự tác” như xưa nay được nữa. Bởi thế mà chúng ta có quyền lạc quan cho tương lai tươi sáng của nhân lọai, cũng như cho dân tộc Việt nam yêu quý của mình vậy.


Đòan Thanh Liêm
California, Tháng Mười Một 2009

Tham khảo :
1/ The Rise and the Fall of Communism, by Archie Brown, 2009
2/ A Short History of the XXth Century, by Geoffrey Blainey, 2005-06
3/ A History of Modern Russia, by Robert Service, 1997-2003


Vết thương đã quá hằn sâu, thật khó mà chữa lành


Đứng trước tình trạng đổ vỡ nặng nề như vậy của quê hương đất nước do đảng cộng sản gây ra từ trên 60 năm nay, chúng ta phải làm gì để góp phần phục hồi và tái thiết lại xứ sở? Đó là cái vấn nạn lớn lao đặt ra trước hết cho tầng lớp sĩ phu trí thức ưu tú, cho giới lãnh đạo tinh thần trong các tôn giáo, rôi đến giới chuyên gia trong các ngành nghề chuyên môn. Tất cả quý vị là “vốn quý của đất nước”, là “nguyên khí của quốc gia”. Quý vị không thể nào mà cứ khoanh tay bất động, và lẩn tránh mãi cái trách nhiệm nặng nề của mình đối với quê hương xứ sở được.

Vết thương đã quá hằn sâu, thật khó mà chữa lành.
(An wound so deep that’s hard to be healed)

Đòan Thanh Liêm (chấp bút)




Hồi đầu mùa hè năm 2009 này, trong dịp đến thăm gia đình anh Chu là bạn đồng hương, đồng tuế hiện định cư tại miền Đông nước Mỹ, tôi được anh chuyển cho mấy trang ghi chép tay của một anh bạn khác mà cùng học chung ở trung học Hồ Ngọc Cẩn tại Xuân Trường Nam Định vào năm 1951-52. Đó là anh bạn Đặng năm nay cũng đã ngòai tuổi 75 rồi. Anh Đặng không viết gì liên quan đến bản thân mình, mà chỉ ghi lại mấy nhận xét về tình hình xã hội tại miền Bắc mà anh đã đích thân chứng kiến suốt trên 50 năm qua, kể từ sau năm 1954. Và anh muốn dặn tôi để tùy nghi khai thác mà viết thành một bài báo như tôi vẫn thường làm từ mấy năm gần đây. Vì thế, sau khi tham khảo thêm với anh Chu và với một số bà con khác, vốn hay có dịp về thăm viếng quê nhà ở ngòai Bắc, tôi thấy đã có thêm dữ kiện để viết bài báo này theo gợi ý của hai anh bạn thân thiết từ nhiều năm xưa.

Đó là lý do tại sao có bài viết này. Bài sẽ được phổ biến sau khi đã được các anh duyệt qua. Vì lẽ các anh mới chính là người có sáng kiến này và còn góp ý kiến về nội dung cho tôi là người viết. Vậy tôi chỉ là người nhận “chấp bút” với hai anh mà thôi. Bạn đọc có thể coi đây là một thứ “công trình tập thể” nhỏ bé của ba ông lão đã ở vào cái tuổi “thất thập cổ lai hy” tất cả rồi.


1/ Trước hết là hiện tượng “Nói dối thành thần”.

Cái điều tệ hại nhất ở nước ta từ ngày người cộng sản nắm chính quyền đã trên 60 năm nay, đó là sự dối trá lươn lẹo, lừa gạt khắp nơi khắp chốn. Từ trung ương chóp bu ở thủ đô Hanoi, cho tới tại địa phương thôn xóm miền quê, đâu đâu cũng thấy người ta lừa dối, thủ thế, dùng đủ mọi đòn phép thủ đọan mà đối xử với nhau. Điển hình nhất là chính ông Hồ Chí Minh đã có lần nói với cán bộ ngành công an rằng: “ Nói dối mà có lợi cho cách mạng, thì không phải là nói dối”! Cụ thể là báo Nhân dân là cơ quan nói dối, bịp bợm nhiều nhất. Nói dối mỗi ngày, nói dối quanh năm.

Vào năm 1946 - 47, vì biết người dân không ưa chủ trương chuyên chính vô sản, nên ông Hồ đã lừa dối, giả vờ giải tán đảng cộng sản. Rồi ông tuyên bố ” Tôi không có một cái đảng nào khác, ngòai cái đảng Việt nam”. Nhưng đến năm 1954, khi trở về lại thủ đô Hanoi được rồi, thì ông lại tuyên bố :”Đảng của ta là đảng cầm quyền”.Rõ rệt là từ ông Hồ trở xuống, bất cứ người cộng sản nào thì cũng ngang nhiên làm mọi điều gì miễn là có lợi cho uy quyền, cho thế lực của đảng, mà không bao giờ phải áy náy trong lương tâm về tính cách thất nhân, thất đức của các hành động đó. Và cứ như vậy, lâu ngày sự dối trá lừa bịp đã trở thành một nếp sống tự nhiên, là chuyện bình thường của xã hội.


2/Tấm gương rất xấu của Hồ Chí Minh.

Ngay cả về đời sống riêng tư của một con người thôi, thì Hồ đã để lại một tấm gương rất xấu, thua xa những người dân bình thường. Theo nhiều nhân chứng đáng tin cậy, thì Hồ đã cưới bà vợ đầu tiên là người Trung hoa tên là Tăng Tuyết Minh vào năm 1926-27. Và hồi năm 1936-38,Hồ đã ăn ở với đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai như hai vợ chồng khi cùng theo học tại trường Đông phương của Đệ Tam Quốc Tế tại Moscow. Theo nhà sử học đáng tin cậy Trần Trọng Kim, thì ông Hồ còn có một người con gái với Bà Đỗ Thị Lạc vào thời Hồ ở bên Tàu trước năm 1941-42. Rồi vào năm 1955-56,Hồ ăn ở với cô Nông thị Xuân, người dân tộc Tày và có được một người con trai tên là Nguyễn Tất Trung được trao cho thư ký riêng là Vũ Kỳ nuôi. Cô Xuân thì để mặc cho Bộ trưởng Nội vụ Trần Quốc Hòan sát hại, cùng với mấy cô em là nhân chứng trong nội vụ. Ấy thế mà ông Hồ cứ im re, không hề lên tiếng bênh vực cho người đã là vợ và là mẹ của đứa con của mình. Ông mê chức quyền, danh tiếng, địa vị hơn là tình nghĩa vợ chồng, tình nghĩa cha con.

Đã đến lúc nhân dân phải được biết rõ về cái mặt trái của chuyện “huyền thoại lãnh tụ”, vốn được bộ máy tuyên truyền khổng lồ của đảng cộng sản tô vẽ thêu dệt lên, đến độ thần thánh hóa, nhằm bịp bợm bao nhiêu thế hệ người dân Việt nam chúng ta. Thế hệ lớp người trẻ ngày nay có thừa khả năng để tìm cho ra sự thật đàng sau những dối trá, bịp bợm nham hiểm đê tiện như thế. Các em phải cùng nhau ra tay vào công việc “giải trừ cái bệnh sùng bái lãnh tụ có tác dụng ngu dân, lạc hậu đã quá lâu như vậy”.

Bây giờ đảng cộng sản bắt cả nước phải học tập tư tưởng và tác phong một con người hèn hạ, dối trá đốn mạt đến như vậy, thì thử hỏi luân lý đạo đức truyền thống của dân tộc chúng ta để ở đâu cả rồi ? Và còn cái “Lăng Hồ chí Minh” hiện vẫn còn nằm chình ình ở giữa thành phố Hanoi, thì mỗi năm chi phí hết bao nhiêu là tiền bạc của nhân dân? Thật là một sự lãng phí vô lối về tài sản quốc gia, nhất định là không thể nào kéo dài mãi mãi được nữa.


3/Sự tàn bạo, độc ác và dối trá trong Cải cách ruộng đất.

Đã có nhiều sách báo và cả hình ảnh mô tả rất chi tiết về cái sự dã man độc ác, bất nhân và vô luân của chính sách tàn bạo này rồi. Nên ở đây chỉ xin ghi lại cái hậu quả tai hại khủng khiếp của chiến dịch này trong nếp sống của xã hội nông thôn miền Bắc mà thôi. Điều tệ hại nhất là chiến dịch này đã bày đặt, ép buộc người dân công khai tố cáo, mạt sát lẫn nhau, đến nỗi chính người vợ tố cáo chồng, con tố cáo cha mẹ, anh chị em ruột tố cáo lẫn nhau. Mà toàn là thứ “tố điêu”, do cán bộ trong đội cải cách xui xiểm, thúc giục và ép buộc người này nêu ra những điều bệ rạc, sai trái “được cán bộ bày đặt sẵn” nhằm triệt hạ một số đối tượng do đội cải cách đã lựa chọn trước tại mỗi nơi thôn xóm, để quy họ vào “ thành phần giai cấp địa chủ ”.

Rồi vào giai đoạn “sửa sai”, thì lại có vụ “trả thù” do gia đình các nạn nhân tìm cách “ăn thua đủ” với loại người đã vu oan giá họa cho các thân nhân của họ. Điều này càng làm cho nếp sống ở nông thôn thêm ngột ngạt căng thẳng,gay cấn. Rút cục lại là chiến dịch phát động cải cách ruộng đất, và tiếp theo là chánh sách cưỡng bức “tập thể hóa nông nghiệp”, đã phá tan nếp sống an bình, thuận thảo giữa các gia đình, dòng họ ở nông thôn, mà cho đến nay, dù đã trên nửa thế kỷ trôi qua, nhân dân tại miền Bắc nước ta vẫn chưa làm sao mà phục hồi lại sinh lực và hàn gắn được cái sự đổ vỡ trầm trọng nơi xã hội nông thôn ngàn xưa của dân tộc chúng ta được.

Nói vắn tắt lại, cái hậu quả lâu dài của tệ nạn cải cách ruộng đất và tập thể hóa nông nghiệp là đã phá nát tan hoang cái truyền thống hài hòa yên ấm do cha ông ta đã nhiều thế hệ mới xây dựng lên được.


4/ Sự phá họai đời sống tâm linh tôn giáo : Không còn ý niệm về Phúc đức, về sự bao dung nhân ái của bậc trượng phu quân tử nữa.

Trong cơn say mê điên loạn của chủ trương “cách mạng triệt để” bằng các thủ đoạn sắt máu và thâm độc, đảng cộng sản đã du nhập chánh sách “tiêu diệt tôn giáo” từ Liên Xô, Trung quốc, phá hoại không biết bao nhiêu cơ sở thờ phượng của các tôn giáo như đình, chùa, miếu đền cũng như các nhà thờ. Không những vậy, mà họ còn khống chế lũng đoạn giới tu sĩ, gây phân hóa chia rẽ trong hàng ngũ lãnh đạo tinh thần. Sự truyền bá lý thuyết duy vật cực đoan, quá khích còn làm cho lớp người nhẹ dạ mất hết quan niệm về giá trị cao đẹp của luân lý đạo đức, của tôn giáo, khiến cho họ chẳng còn biết sợ hãi bị lương tâm dày vò cắn rứt, mỗi khi làm điều chi xằng bậy sai quấy, mà chỉ còn biết coi trọng “ giá trị vật chất là trên hết!”

Hậu quả là sinh hoạt tôn giáo đã bị bóp nghẹt, không sao phát triển nơi quần chúng nhân dân, nhất là nơi các thế hệ trẻ. Từ đó, người dân lần hồi mất hết ý niệm về lý tưởng đạo đức, về tinh thần khoan dung nhân ái của bậc trượng phu quân tử, xem nhẹ tấm lòng từ bi bác ái mà từ xa xưa vốn là rường cột trong hệ thống giá trị tinh thần của nền văn hóa dân tộc. Rõ ràng là xã hội đã bị băng hoại đến cực độ về phương diện nhân nghĩa luân lý.

Sự phá sản, xuống cấp về đạo đức lễ nghĩa như vậy còn tác hại sâu xa nặng nề đến truyền thống đạo hạnh của các gia đình và dòng tộc, vốn là cơ sở nền tảng để nuôi dưỡng và hun đúc tinh thần yêu nước, thương nòi cho các thế hệ con cháu của quảng đại quần chúng nhân dân.

Nói tóm lại, đây là sự tàn phá nguy hại nhất cho cơ sở đạo đức tâm linh, mà vốn là căn bản của nền văn hóa dân tộc. Sự tàn phá này sâu rộng đến nỗi dân tộc chúng ta sẽ phải mất nhiều thế hệ sau nữa mới có thể phục hồi gây dựng lại xã hội tại quê nhà như thuở xưa được. Đây chính là cái vết thương trầm trọng, thâm độc nhất và nguy hiểm nhất, mà người cộng sản đã mú quáng và nhẫn tâm gây ra, khiến làm tê liệt sâu thẳm trong tận đáy tâm hồn của tập thể dân tộc chúng ta.

Đứng trước tình trạng đổ vỡ nặng nề như vậy của quê hương đất nước do đảng cộng sản gây ra từ trên 60 năm nay, chúng ta phải làm gì để góp phần phục hồi và tái thiết lại xứ sở? Đó là cái vấn nạn lớn lao đặt ra trước hết cho tầng lớp sĩ phu trí thức ưu tú, cho giới lãnh đạo tinh thần trong các tôn giáo, rôi đến giới chuyên gia trong các ngành nghề chuyên môn. Tất cả quý vị là “vốn quý của đất nước”, là “nguyên khí của quốc gia”. Quý vị không thể nào mà cứ khoanh tay bất động, và lẩn tránh mãi cái trách nhiệm nặng nề của mình đối với quê hương xứ sở được.

Chúng tôi chỉ biết trình bày trung thực và chính xác về tình trạng nguy ngập như vậy, và lên tiếng báo động với toàn thể bà con về chuyện này. Mà không hề dám có tham vọng đưa ra một giải pháp lớn lao cụ thể nào cho vấn đề trọng đại này của toàn thể quốc gia. Chúng tôi chỉ biết kêu gọi đến tinh thần dấn thân nhập cuộc của tất cả mọi con dân ưu tú người Việt nam hiện đang ở trong cũng như ở ngoài nước, đặc biệt là giới lãnh đạo tinh thần và tầng lớp sĩ phu quân tử, để cùng nhau “nối vòng tay lớn” nhằm cứu nguy đất nước khỏi cơn khủng hoảng trầm luân này./


Đoàn Thanh Liêm
California, Tháng 11 Năm 2009


Chuyện Thật Nhưng Tưởng Như Đùa Tại Quốc Hội Của Chế Độ Toàn Trị !


Những ai quan tâm tới vận mệnh đất nước –từ các chuyên viên, trí thức, nhà báo, nhà văn, sinh viên, học sinh và cả những đảng viên CS vẫn biết quí lòng tự trọng – đều rất ngậm ngùi thương cho số phận của nhân dân và lo cho tương lai của đất nước, hổ thẹn vì một nước có bốn ngàn năm văn hiến mà lại có những người đứng đầu tồi tệ như thế được! Mọi người đều cảm thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm, không thể khoanh tay đứng nhìn những kẻ bất tài vô đức và mất tư cách vẫn ngạo mạn và tàn bạo tiếp tục cưỡi đầu cưỡi cổ nhân dân! ?

Âu Dương Thệ




Năng lực và tác phong của một số nhân vật trước Đại hội 11 sắp tới
* Thủ tướng vô quyền nhưng lại thích nổ
* Bộ trưởng Nội vụ đổ lỗi cho lối lãnh đạo tập thể
* Chấm điểm và tự cho điểm của Chủ tịch QH

Một nguyên tắc căn bản là giường cột trong sinh hoạt chính trị của các nước dân chủ và văn minh là, người cầm đầu chính phủ - dù xuất thân từ bất cứ một chính đảng nào - đại diện và bảo vệ quyền lợi của nhân dân và do đó chỉ chịu trách nhiệm trước nhân dân. Những người cầm đầu ĐCSVN đã đưa ra tiêu chí xây dựng một xã hội dân chủ và văn minh và chính quyền là của nhân dân. Các cơ quan Nhà nước từ Chính phủ, Quốc hội, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Tòa án Nhân tối cao…đều là đảng viên của ĐCS. Nhưng khi hành xử quyền hành để xây dựng đất nước và giải quyết những khó khăn thì những người cầm đầu các cơ quan Nhà nước đứng trên tư cách nào? Tư cách là người đại diện của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân? Hay lấy tư cách là đại diện nhân dân, nhưng lại chỉ chịu trách nhiệm trước ĐCS, mặc kệ những bức xúc của nhân dân? Đây là vấn đề then chốt, cần phải được làm sáng tỏ trắng đen.

Trong kì họp Thứ sáu của Quốc hội (QH) Khóa 12, Chủ tịch QH Nguyễn Phú Trọng đã tổ chức một số buổi chất vấn Thủ tướng (TT) Nguyễn Tấn Dũng và một số bộ trưởng về những bức xúc của nhân dân và các nổi cộm của xã hội. Những người đứng đầu các cơ quan chính của quốc gia đã trả lời như thế nào? Năng lực của họ ra làm sao? Tư cách của họ có xứng đáng không? Họ có phải là những chính khách quốc gia có tài cao, đức trọng và uy tín? Hay chỉ là những cán bộ cấp cao của ĐCS và chỉ thi hành mệnh lệnh của của một vài người có quyền lực nhất trong Bộ chính trị (BCT)?

Kì họp Thứ sáu của QH Khóa 12 vừa kết thúc ngày hôm nay (27.11) đã để lại một „ấn tượng“ đặc biệt, nó giống hệt như khi người ta nghe và nhìn trên TV khi Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tuyên bố ở Cuba ngày 28.9. 09! Không phải một vài đại biểu đã đặt những câu hỏi thẳng thắn đã gây ấn tượng tốt, nhưng chính là các lời tuyên bố và thái độ của vài người đang „gánh trọng trách của đất nước“ đã tạo ra một ấn tượng đặc biệt. Những chuyện có thật, nhưng lại tưởng như nói đùa, nói chơi, nói phét trong những quán nhậu đã thoát ra từ cửa miệng một số người vẫn tự vỗ ngực là, ra gánh vác trách nhiệm trước nhân dân và đất nước. Họ đã tuyên bố ngay trong hội trường QH, cơ quan „quyền lực cao nhất“ của chế độ độc tài toàn trị và đã được truyền tải trên các báo và đài.


Thủ tướng vô quyền nhưng lại thích nổ !

Hai vấn đề đang gây bức xúc nhất trong nhân dân và nổi cộm nhất của chế độ độc tài toàn trị của ĐCSVN là tệ trạng tham nhũng và việc mua quan bán chức. Khi nhận chức Thủ tướng vào tháng bẩy 2006 Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố với nhân dân, coi đây là hai trọng tâm hoạt động của chính phủ dưới quyền của ông. Vì thế không chỉ là TT, ông Dũng còn là Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng (TBCĐTU PCTN).
Trong ngày 19.11 một số đại biểu QH đã nêu thẳng vấn đề là, trái với những lời hứa trước đây của TT, nhưng tại sao tệ trạng tham nhũng tiếp tục gia tăng? Nguyễn Tấn Đũng đã trả lời:

"Có thể nói bằng sự nỗ lực kiên quyết của cả hệ thống chính trị, công tác phòng chống tham nhũng đã đạt được kết quả bước đầu như nâng cao nhận thức, trách nhiệm các cấp, các ngành, hoàn thiện thể chế công khai minh bạch theo kinh tế thị trường để nhân dân kiểm soát, quan tâm"

Nghĩa là sau hơn ba năm làm TT và TBCĐTU PCTN, nhưng ông Dũng xác nhận mới chỉ làm được là „nâng cao nhận thức, trách nhiệm“ của cán bộ, đảng viên trong việc chống tham nhũng này. Nhưng các lời hoa mĩ này cũng chẳng làm ai tin. Bởi vì thực tế đã phủ nhận những lời của Nguyễn Tấn Dũng! Thật vậy, trong hơn ba năm làm TT, nhưng cán bộ, đảng viên dưới quyền đã không „nâng cao nhận thức, trách nhiệm“ trong việc chống tham nhũng, mà ngược lại đã coi thường việc này, khinh thường các quyết định của Nguyễn Tấn Dũng. Vì theo lời của một số đại biểu, nhiều chủ tịch Ủy ban Nhân dân (UBND) và Hội đồng nhân dân (HĐND) các tỉnh và thành phố đã phớt lờ các chỉ thị của TT. Cấp dưới không trọng cấp trên cũng là điều dễ hiểu, vì chính họ đã thấy sự bất lực và tác phong gian dối nói một đằng làm một nẻo của Nguyễn Tấn Dũng trong nhiều sự việc suốt trên ba năm làm TT. Đăc biệt là thái độ vô trách nhiệm và cố ý đạp lên luật pháp của chính người cầm đầu chính phủ. Rõ ràng nhất là „vụ tham nhũng cực kì nghiêm trọng PMU 18“.

Mọi người đều biết, đầu tháng 7.2006 khi nhậm chức TT, Nguyễn Tấn Dũng đã chủ ý đưa ra một đòn ngoạn mục cho những hoạt động đầu tiên trong tư cách TT nên đã tuyên bố, sẽ đem ra xét xử 7-8 vụ tham nhũng đang nổi cộm và gây bức xúc trong xã hội vào thời điểm đó. Trong số này đặc biệt phải kể tới vụ PMU 18 đã khiến cả Tướng Võ Nguyên Giáp phải kết luận đây là vụ tham nhũng „cực kì nghiêm trọng“. Tiếp đó Nguyễn Tấn Dũng còn ra Nghị định số 107 ngày 22.9.06 qui định, nếu trong bộ hay cơ quan nào để xẩy ra tham nhũng thì người đứng đầu cơ quan này phải chịu trách nhiệm. Chính vào dịp đó ông Dũng còn dõng dạc hô hoán rằng: Sẽ trừng trị nghiêm khắc những quan tham nhũng bất kể người đó đang giữ chức vụ gì!

Nhưng các diễn tiến trong vụ xét xử PMU 18 từ sau Đại hồi 10 trở đi thì lại hoàn toàn đối chọi nhau như trắng với đen, ngày với đêm giữa luật pháp, lời nói và hành động của Nguyễn Tấn Dũng. Cựu Thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến được tha, nhiều quan lớn trong bộ Công an, Văn phòng Chính phủ, Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao, Ủy ban Kiểm tra Trung ương vẫn bình chân như vại, mặc dù dính líu trong việc ăn bẩn và chia chác nhau hàng ngàn tỉ đồng từ tiền trong các công trình xây dựng cầu đường của Bộ Giao thông vận tải. Cả con rể của Nông Đức Mạnh từng làm trong PMU 18 cũng không ai dám đụng tới. Trong khi đó, nhiều nhà báo viết bài tường thuật và sĩ quan công an cao cấp điều tra vụ PMU 18 lại đã bị đưa ra tòa! Vì thế, vụ án tham nhũng PMU 18 đã chứng tỏ sự bất lực của các cơ quan pháp luật, sự vô quyền của Nguyễn Tấn Dũng và sự trâng tráo ngạo mạn của những người có quyền lực hiện nay của chế độ toàn trị!
Hơn ba năm trước, khi Ban Chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng vừa ra đời, căn cứ vào năng lực cũng như tác phong của Nguyễn Tấn Dũng và nhất là cơ chế tổ chức và vận hành quyền lực của chế độ toàn trị CSVN, nên chính người viết đã đưa ra nhận định là, „Ban Chỉ đạo Trung ương phòng và chống tham nhũng do Nguyễn Tấn Dũng cầm đầu chỉ là hổ không răng“!

Cũng trong buổi trả lời chất vấn tại QH ngày 19.11 liên quan tới việc tham nhũng của các quan lớn trong vụ PCI với các công ti Nhật và việc in tiền Polymer ở Úc, thay vì nhìn nhận sự yếu kém của pháp luật của chế độ toàn trị và sự bất lực của những người cầm đầu đảng và nhà nước, Nguyễn Tấn Dũng lại lên giọng dạy đời và tô hồng chế độ, lên giọng làm bộ như luật pháp của họ rất nghiêm minh và họ biết trọng uy tín quốc gia. Khi giải thích về việc tại sao chính phủ đã không mở điều tra sớm và rốt ráo trong các vụ này thì ông Dũng đã trả lời rất đao to búa lớn:

"Thái độ của Đảng và Nhà nước, của Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng trung ương là làm một cách quyết liệt, khách quan, đầy đủ, nghiêm túc theo pháp luật Việt Nam, không sót một người nào và cũng không oan một người nào."

Khi nói Đảng, Nhà nước và chính ông ta với tư cách TT „quyết liệt, khách quan, đầy đủ, nghiêm túc theo pháp luật VN…“ Nguyễn Tấn Dũng không chỉ tìm cách đánh bóng chính mình và chế độ toàn trị, làm như họ có quyết tâm trong việc chống tham nhũng. Không những thế, ông Dũng con tô hồng là luật pháp của chế độ rất nghiêm minh trong việc chống tham nhũng. Đấy là chưa kể, khi nhấn mạnh “nghiêm túc theo pháp luật VN“ Nguyễn Tấn Dũng còn cố tình mị dân, ru ngủ lòng tự tôn dân tộc để đánh lạc hướng trong dư luận. Nhưng ông Dũng không đánh lừa được ai, họa chăng là tự giả dối với chính mình!

Thật vậy, người dân trong nước, các tổ chức quốc tế và nhiều chính phủ dân chủ trên thế giới theo dõi các vụ PCI và Polymer đều thấy rất rõ là:

1. Luật pháp của chế độ toàn trị ở VN là luật cao su, xử thế nào cũng được đối với các cán bộ và đảng viên tham nhũng –như chính cựu Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao và Ủy viên Trung ương đảng Nguyễn Văn Hiện đã từng xác nhận. Các bản án đã được quyết định sẵn do các cơ quan có thẩm quyền của Đảng, các vụ nhỏ ở địa phương thì do các Ủy viên có quyền lực trong các cấp Ủy tại quận, tỉnh hay thành phố; còn các vụ xét xử lớn thì do Ban Bí thư hay BCT đã định sẵn và các Chánh án các Tòa án nhân dân phải thi hành. Vụ án cựu Giám đốc Nông trường Sông Hậu và nguyên Anh hùng Lao động bà Trần Ngọc Sương đã là chứng minh mới nữa về việc đứng trên pháp luật của các cơ quan Đảng. Ủy viên Trung ương đảng kiêm Bí thư thành ủy thành phố Cần thơ Nguyễn Tấn Quyên đã ra lệnh cho các cơ quan Công an, Viện kiểm sát và Tòa án Nhân dân đưa bà Sương ra tòa. Hiện nay dư luận trong nước rất bức xúc và nhóm cầm đầu chế độ đang phải tìm cách xoa dịu!

2. Những người cầm đầu chế độ toàn trị ở VN đã cố tình trì hoãn và chống lại việc điều tra các quan lớn của chế độ toàn trị từng đã tổ chức và dính dấp trong các vụ tham nhũng hàng triệu Mĩ kim này. Chỉ khi nào áp lực của nước ngoài quá mạnh thì họ mới buộc lòng phải xem xét hồ sơ. Nhưng ngay cả trong trường hợp này họ cũng không làm việc nghiêm túc, mà lại lươn lẹo tìm cách chạy tội cho các thủ phạm và để cho các quan lớn hơn được hạ cánh an toàn.

Thí dụ rõ ràng như trong vụ PCI, nhóm cầm đầu chế độ toàn trị ở VN lúc đầu đã khăng khăng từ chối không cho điều tra và cũng chẳng tham khảo các hồ sơ của các tòa án Nhật đã cung cấp. Mãi cho tới cuối năm 2008 khi chính phủ Nhật công khai cắt đứt viện trợ ODA lên tới cả hàng tỉ Mĩ kim thì khi ấy nhóm cầm đầu mới xuống nước cho mở điều tra và phải để cho cả Nông Đức Mạnh người cầm đầu chế độ phải thân hành sang Nhật xoa dịu. Nhưng họ cũng không điều tra nghiêm túc, trái lại đã chỉ tìm cách bắt vài con tép, còn các con cá sộp vẫn tung tăng bơi lội! Không những thế, để bảo vệ cho vây cánh họ còn lươn lẹo làm nhẹ tội cho những người bị đưa ra xét xử, Huỳnh Ngọc Sỹ, Trưởng ban Dự án Đại lộ Đông-tây ở Sài gòn thay vì bị tội „nhận hối lộ“ chia chác với các quan lớn khác hàng triệu Mĩ kim, chỉ còn là „lợi dụng chức vục quyền hạn trong khi thi hành công vụ“.

Trong vụ in tiền Polymer ở Úc có liên hệ tới con trai của cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước và Ủy viên Trung ương đảng Lê Đức Thúy, hiện nay Nguyễn Tấn Dũng cũng đang âm mưu áp dụng thủ đoạn tương tự là bao che cho phe nhóm và bảo vệ cho những quan lớn tham nhũng đang có quyền lực!

Khi mới nhậm chức TT, Nguyễn Tấn Dũng huyênh hoang tuyên bố sẽ nghiêm trị những quan tham nhũng và viên chức coi thường luật pháp, bất cứ người đó đang giữ chức vụ gì. Nhưng trong cuộc chất vấn tại QH ngày 19.11 khi một số đại biểu bức xúc đặt câu hỏi, tại sao nhiều viên chức đã vi phạm kỉ luật mà tới nay vẫn không bị xử lí? Nguyễn Tấn Dũng đã cho biết:

“Thủ tướng có quyền nhưng xử lý kỷ luật thì vẫn phải thực hiện theo trình tự của pháp luật, theo tính chất vụ việc và cả theo quy định của Đảng nữa. Việc này Chính phủ cũng như Thủ tướng Chính phủ hết sức cố gắng làm đầy đủ, chức năng quyền hạn của mình.“

Nói như thế có nghĩa là, khi các bộ trưởng, chủ tịch UBND và HĐND vi phạm kỉ luật thì TT không được phép và cũng không giám cách chức hay khiển trách mà phải trình Ban Bí thư Trung ương và chờ quyết định của BCT theo đúng „qui định của Đảng“! Nghĩa là TT chỉ ngồi chơi xơi nước và thỉnh thoảng phải tuyên bố nẩy lửa tạo một tin tưởng giả tạo! Muốn nắm ghế TT thì phải có trách nhiệm với Đảng, mà ở đây là BCT do một vài người có thế lực thao túng. Trong chế độ độc tài toàn trị, TT không chịu trách nhiệm trước nhân dân như trong một chế độ dân chủ đa nguyên!

Suy nghĩ và hành động theo lệnh của một vài người có thế lực nhất trong BCT đã trở thành quán tính của Nguyễn Tấn Dũng. Cho nên ông còn cho biết một cách rất tự nhiên: „Tôi nhớ ba năm nay cũng chưa xử lý kỷ luật đồng chí nào” Khi nói đến đây Nguyễn Tấn Dũng còn hãnh diện ví hành động của mình tương tự với thái độ của Phạm Văn Đồng, từng làm TT trên 32 năm (1955 -1987):

“Tôi còn nhớ hồi đồng chí Phạm Văn Đồng còn làm Thủ tướng, dù có lẽ là Thủ tướng lâu nhất của đất nước nhưng đồng chí cũng chưa xử lý, kỷ luật đồng chí nào, kể từ chủ tịch xã, phường trở lên. Tôi nhớ ba năm nay cũng chưa xử lý kỷ luật đồng chí nào.“
Những câu trên đây không phải là nói đùa cho vui, cách nói của những anh chàng trong một quán nhậu đã ngà ngà say sưa! Những câu trên là một chuyện thật, từ một nhân vật đứng đầu chính phủ đã nói oang oang trong hội trường QH của chế độ XHCN!

Nhưng ở đây Nguyễn Tấn Dũng lờ đi một việc mà chính Phạm Văn Đồng vào những năm cuối của cuộc đời đã tự bộc lộ và phải nhìn nhận là, tuy làm TT lâu đời nhất nhưng chẳng có thực quyền gì, mọi việc đều phải tuân hành nguyên tắc „tập trung dân chủ“, nghĩa là chỉ một vài ủy viên BCT có quyền lực nhất trong từng thời kì thao túng tất cả!
Mặc dầu biết rằng cầm đầu chính phủ nhưng vẫn vô quyền, nhưng khi trả lời chất vấn tại QH ngày 19.11 Nguyễn Tấn Dũng vẫn tỏ ra thỏa mãn và hãnh diện, bệnh nổ vẫn cao, không thấy rằng mình chỉ là cái thùng rỗng kêu to! Điều này cho thấy ông Dũng chỉ tham quyền, năng lực lại kém. Như thế Nguyễn Tấn Dũng tự chứng tỏ tác phong và tư cách như thế nào! Nhưng nếu xét về mặt giáo dục và tuyển chọn nhân sự ở các cấp cao của ĐCSVN thì đây không phải là cá tính riêng của ông Dũng, mà nó là đặc thù chung của chế độ toàn trị. Chính điều này nhiều „cách mạng lão thành“, như cố TT Võ Văn Kiệt, cố Ủy viên BCT Mai Chí Thọ, Trung tướng Đặng Quốc Bảo và gần đây Nguyễn Đình Hương, nguyên Ủy viên TUĐ, Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương và Trưởng ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ Trung ương hiểu rất rõ nội tình chế độ này cũng xác nhận.


Bộ trưởng Nội vụ đổ lỗi cho tập thể !

Lãnh vực nổi cộm thứ hai hiện nay trong chế độ độc tài toàn trị ở VN là việc mua quan bán chức đang gia tăng khủng khiếp và bệnh cửa quyền đang hành dân. Một ngày trước Nguyễn Tấn Dũng trả lời tại QH thì ngày 18.11 Ủy viên Trung ương đảng, Bộ trưởng nội vụ Trần Văn Tuấn đã giải đáp thắc mắc về tình trạng mua quan bán chức đang ngày càng lộ liễu trong chế độ toàn trị.

Hiện nay ngân sách quốc gia mỗi năm (tức tiền đóng thuế của nhân dân) phải bỏ ra hàng trăm ngàn tỉ đồng để trả lương cho công chức và các nhân niên nhà nước, nhưng một số đại biểu QH đã chỉ trích năng lực thấp và tinh thần vô trách nhiệm của các giới chức và cho biết, hiện nay „trong đội ngũ chỉ có 1/3 làm cật lực, 1/3 "chỉ đâu đánh đó", 1/3 có mặt cho thêm đông vui, nhiều khi còn gây rối". Trần Văn Tuấn không dám trả lời thẳng vào câu hỏi này, nhưng đã nói :

"Hàng năm, khi tổng hợp đánh giá, bỏ phiếu cho cán bộ từ cơ sở đưa lên vẫn có trên 90% hoàn thành nhiệm vụ".

Buổi chất vấn này sau đó được truyền hình. Khi ông Tuấn buột miệng ra câu trên thì người ta nghe thấy những tiếng cười chua chát, mỉa mai trong hội trường QH, mặc dầu trên 90% đại biểu QH là đảng viên. Cách đánh giá và bỏ phiếu cho cán bộ kiểu này đang phổ cập trong các cơ quan của ĐCS và chính phủ làm người ta nhớ lại việc các cán bộ đảng viên trong PMU 18 trước khi vụ tham nhũng bị tung ra đều cũng được đánh giá, bỏ phiếu là „đảng viên A1“, tức thuộc hạng „trong sạch, vững mạnh“!

Khi một số đại biểu QH hỏi là, tại sao chính phủ nói là đang tăng cường cải cách hành chánh, coi đây là nhiệm vụ then chốt để thanh lọc hàng ngũ công chức và chấm dứt nạn hành dân, nhưng nạn mua quan bán chức và hành dân lại càng gia tăng? Người đứng đầu công tác tuyển chọn cán bộ trong chính phủ Trần Văn Tuấn tuy nhìn nhận là tình trạng tha hóa mua quan bán chức đang bung ra, nhưng ông đã trả lời rất ư là vô tư, vô tội vạ: "có ai báo với ai đâu mà biết"!

Lại một chuyện thật tưởng như đùa! Không ai có thể nghĩ là một người cầm đầu một bộ lo tuyển chọn viên chức cấp cao và trung toàn quốc lại có thể mở miệng nói ra một câu vô trách nhiệm đến như thế được và còn tỏ ra ngờ ngệch đến như thế! Chả lẽ Trần Văn Tuấn ngờ nghệch đến nỗi, chờ bọn quan bán chức và những kẻ mua chức vị sẽ tới gõ cửa Bộ nội vụ khai báo, hoặc giả báo chí dưới quyền kiểm soát của chế độ -tức là dưới quyền của một vài người có quyền lực - sẽ dám làm công tác tố cáo các bọn mua quan bán chức!

Như thế vẫn chưa đủ, khi được hỏi về các biện pháp nhằm tăng cường năng lực và tinh thần trách nhiệm của các giới chức cũng như các giải pháp nhằm chấm dứt tệ trạng mua quan bán chức đang tung hoành, Trần Văn Tuấn đã đổ cho đó là trách nhiệm của tập thể:
"Công tác cán bộ là công tác của tập thể. Nếu các cấp làm tốt thì tình trạng này sẽ giảm. Bộ Nội vụ phải giám sát. Còn yêu cầu chấm dứt là khó. Nói như vậy chắc Đại biểu chưa toại nguyện, vì công tác cán bộ là việc khó".

Ở đây Trần Văn Tuấn nói rất đúng bức tranh vân cẩu của chế độ XHCN hiện nay ở VN. Như phần trên đã trình bày lời xác nhận của Nguyễn Tấn Dũng trong việc này. Trong chế độ XHCN, từ Thủ tướng tới các Bộ trưởng đều không có quyền tự ý cách chức hay chấm dứt các nhân viên dưới quyền. Các quyết định bổ nhiệm hay kỉ luật các cán bộ cấp cao đều do Ban bí thư Trung ương đề nghị và sau đó BCT sẽ quyết định. Đây là nguyên tắc tổ chức và vận hành được gọi là „tập trung dân chủ“ trong chế độ độc tài toàn trị ở VN. Trong thực tế, cách thăng thưởng hay thi hành kỉ luật này tạo ra quyền sinh sát vào tay một vài người có quyền lực mạnh nhất trong BCT ở mỗi giai đoạn. Vì thế, thói chuyên quyền và lạm dụng quyền lực là bệnh kinh niên của chế độ toàn trị! Nếu bỏ nó đi thì chế độ này sẽ tan rã ngay! Chính vì thế, ngay từ khi còn làm TT vào giữa thập niên 90 của thế kỉ trước, Võ Văn Kiệt đã đề nghị hủy bỏ nguyên tắc tổ chức „tập trung dân chủ“ vừa độc tài vừa vô trách nhiệm này. Nhưng khi ấy từ Lê Khả Phiêu tới Nguyễn Phú Trọng đã kết án gay gắt. Khi đó ông Trọng đã nói thẳng là, „phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là phủ nhận Đảng từ bản chất“. Nó như bộ sương sống của con người, ai đòi bỏ nó đi là chống lại Đảng!


Chủ tịch Quốc hội chấm điểm và tự cho điểm !

Trong khi tại hội trường QH, Nguyễn Tấn Dũng người cầm đầu chính phủ đã không dám nhìn nhận trách nhiệm về sự bất lực và vô quyền trong việc chống tham nhũng và Bộ trưởng Nội vụ Trần Văn Tuấn đã phủi trách nhiệm trước tệ trạng mua quan bán chức ngày càng bức xúc và trắng trợn. Tuy nhiên cả hai người đều coi đó như là một chuyện hết sức bình thường, ông Dũng lại còn hãnh diện so sánh thái độ khoanh tay, bịt mắt, che tai của mình cũng giống như Phạm Văn Đồng. Đấy là chưa kể trong dịp này Nguyễn Tấn Dũng vẫn khoác lác tự khoe, dùng cách nói mị dân và thích nổ để che đậy những lời hứa khi ông ta nhậm chức TT hơn ba năm trước. Nhiều đại biểu QH đã chua sót và cười mỉa mai về tài làm hề không biết ngượng của hai nhân vật này. Khi theo dõi trên TV những câu trả lời của Nguyễn Tấn Dũng và Trần Văn Tuấn về những bức xúc của nhân dân và đất nước, những người am hiểu cũng đều cảm thấy ngậm ngùi và bực bội!

Nhưng Ủy viên BCT kiêm Chủ tịch QH Nguyễn Phú Trọng, người được coi là rất có quyền lực và thần phục Bắc kinh, đã hoàn toàn không cảm thấy như thế. Ngay vào buổi cuối cùng kết thúc các cuộc chất vấn sáng 19.11 người đứng đầu QH đã khen Nguyễn Tấn Dũng:
“Rất thẳng thắn, rành mạch, cụ thể và cũng làm rõ thêm nhiều vấn đề mà các vị đại biểu và cử tri quan tâm, chỉ tiếc là thời gian hơi ít“.

Riêng tờ Cộng sản điện tử cũng nhắc lời phê của ông Trọng : „Việc Thủ tướng có báo cáo, trả lời nhiều vấn đề „nóng“ tạo ấn tượng mạnh tại phiên chất vấn.“

Như vậy là Nguyễn Phú Trọng đã chấm điểm cho Nguyễn Tấn Dũng và một số bộ trưởng tham dự trong các buổi chất vấn tại QH đúng theo cung cách kẻ tung người hấng, mèo khen mèo dài đuôi! Như vậy vẫn chưa đủ, ngày hôm sau vào chiều 20.11 Nguyễn Phú Trọng còn bắt cả QH có một buổi họp đặc biệt đầu tiên dành cho Ủy ban Thường vụ QH –mà người đứng đầu cũng chính là ông Trọng- để các đại biểu phải tâng bốc. Tờ Cộng sản đã tổng kết ý kiến của các đại biểu QH về vai trò và các hoạt động của UBTVQH từ khi ông Trọng làm Chủ tịch QH hơn ba năm qua :

“Các đại biểu Quốc hội cơ bản nhất trí với báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hoan nghênh Ủy ban Thường vụ Quốc hội lần đầu tiên báo cáo và nghe ý kiến góp ý trực tiếp của các đại biểu Quốc hội tại hội trường, về tình hình hoạt động và phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới.

Các đại biểu Quốc hội cho rằng, việc làm lần này của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thể hiện tính dân chủ, minh bạch trong hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, cần tiếp tục được duy trì trở thành thường lệ tại các kỳ họp sau của Quốc hội.“

Như vậy lại một chuyện thực nhưng tưởng như đùa mà ông Trọng đã dùng quyền lực của mình để bắt các đại biểu phải tung hô vạn tuế ngay trong hội trường QH! Những việc làm của Nguyễn Phú trọng đã cho thấy ý đồ của ông ta là: Chấm điểm cho Thủ tướng và các bộ trưởng để tỏ uy quyền và sau đó cũng không quên tự cho điểm mình để gây thành tích chuẩn bị giữ ghế chia phần trong Đại hội 11 vào đầu tháng 1. 2011!

***

Hội trường QH trong vài ngày qua đã được một số người có quyền lực của chế độ độc tài toàn trị biến trở thành một sân khấu cho một nhóm phường tuồng múa may quay cuồng. Trong khi hoạt náo viên Nguyễn Tấn Dũng thao thao bất tuyệt kể về „thành tích“ chống tham nhũng thì người phụ tá Trần Văn Tuấn khoe về kết quả chống nạn mua quan bán chức! Trong màn kết thúc, nhà đạo diễn Nguyễn Phú Trọng đã trịnh trọng chấm điểm và khen ngợi các hoạt náo viên diễn tuồng rất thuộc bài vở và đúng sở trường. Trong buổi kết thúc các đại biểu khán giả đã tung huê vạn tuế Nguyễn Phú Trọng là đã đóng vai đạo diễn rất suất sắc!

Chuyện thật tưởng như đùa trong sân khấu chính trị của chế độ độc tài toàn trị còn được cả Chủ tịch Nguyễn Minh Triết xuất cảng sang anh em đồng chí Cuba. Cuối tháng 9 vừa qua, từ New York ông Triết đã bay qua gặp các đồng chí Cuba. Tại đây trước một cử tọa đã được chọn lựa, nhà họat náo Nguyễn Minh Triết tủm tỉm má núm đồng tiền và cặp mắt lấp láy rồi vung tay đã lanh lảnh cất lên những câu:

"Có người ví von, Việt Nam- Cu Ba, như là trời đất sinh ra,
Một anh ở phía Đông, một anh ở phía Tây,
Chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới.
Cu Ba thức thì Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cu Ba nghỉ"!

Người ta tự hỏi Chủ tịch nước của chế độ XHCN có còn bình thường không? Người của hành tinh khác? Hay đang làm trò hề?

Các diễn viên chính trị hàng đầu của chế độ độc tài toàn trị đã làm những việc giống hệt như các anh hề và những người bán dầu cù là ở góc phố. Họ làm một cách rất tự nhiên, rất bài bản và lại còn hãnh diện nữa! Chuyện tưởng như đùa đó lại vẫn là một sự thực trong sinh hoạt chính trị của chế độ toàn trị trong bao nhiêu thập niên vừa qua! Hiện nay họ đang còn chuẩn bị ráo riết nhiều trò ảo thuật khác cho Đại hội 11 vào đầu tháng 1. 2011!

Những ai quan tâm tới vận mệnh đất nước –từ các chuyên viên, trí thức, nhà báo, nhà văn, sinh viên, học sinh và cả những đảng viên CS vẫn biết quí lòng tự trọng – đều rất ngậm ngùi thương cho số phận của nhân dân và lo cho tương lai của đất nước, hổ thẹn vì một nước có bốn ngàn năm văn hiến mà lại có những người đứng đầu tồi tệ như thế được! Mọi người đều cảm thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm, không thể khoanh tay đứng nhìn những kẻ bất tài vô đức và mất tư cách vẫn ngạo mạn và tàn bạo tiếp tục cưỡi đầu cưỡi cổ nhân dân! ?


ÂU DƯƠNG THỆ


29 November 2009

Không thể không nói


Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cứu kỹ phong thủy địa mạch và họ ý thức được rằng có một cách vãn hồi được điểm yếu cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Hymalaya qua cao nguyên Tây Tạng, qua cao nguyên Vân Nam, qua đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống vịnh Hạ Long rồi đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11Km ở vịnh Mindanao Philippin. Đó cũng là mạch đất độc đáo nối từ “Cổng Trời” đầy thiên khí đến “Địa Huyệt” đầy của cải có độ cao chênh nhau ngót 20Km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc bánh sandwich đó, không cho nó trôi trượt đi, mà họ còn có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức “củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được” để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.

Trần Thanh Vân



(Trích lời giới thiệu của GS. Nguyễn Huệ Chi): Phần thứ hai của bài viết của KTS Trần Thanh Vân là một kiến giải có tính chất dự báo về việc áp dụng lý thuyết phong thủy để nhìn xem hình thế địa mạch trái đất như một sợi dây liên thông vô hình không dứt, trong đó Việt Nam là một điểm nhấn quan trọng. Tôi không dám lạm bình vào những điều huyền vi này, bởi phong thủy là một môn học đòi hỏi phải có sự kết hợp xét đoán nhiều mặt, tinh tường, về những gì đã hiện hình trên thế núi, hình sông mạch đất, và cả những gì thuộc phạm vi tâm linh chứ chưa hiện rõ. Tôi tuyệt nhiên không biết một chút sơ đẳng về cái học uyên áo kia trong khi chị đã có đến 19 năm đào sâu về nó. Bởi vậy, chỉ xin được giới thiệu với bạn đọc kiến giải của chị như những giả thuyết không chỉ hấp dẫn về khả năng liên tưởng sâu xa mà phía sau nó còn là một lời cảnh báo nghiêm khắc với những ai có quyền, có tiền, có đủ thứ, chỉ duy không có trái tim hoặc trái tim đã bị chia ra nhiều phần, phần lớn nhất buộc phải dâng cho kẻ khác, vì thế mắt mở to mà không hề nhìn thấy mọi hiểm họa đang rình rập tứ phía đối với giải đất cong cong hình chữ S ruột thịt của 85 triệu con dân Việt. Và đây là lời cảnh báo chị muốn đưa ra: hãy kịp thời tỉnh lại đi những ai đang mê muội trong giàu sang và quyền lực, vì bàn chân lũ cáo ranh mãnh đã mon men đặt lên một vài trong các tử huyệt của đất nước.

* * *

PHẦN I

TÔI BIẾT GÌ VỀ TRUNG QUỐC?

Lâu nay mọi người vẫn nghĩ rằng tôi là một Kiến trúc sư cảnh quan có hiểu chút ít về phong thủy Thăng Long, âu cũng là chuyện bình thường, cho nên những vấn đề gì liên quan đến phong thủy của Kinh đô Thăng Long xưa và Hà Nội mở rộng ngày nay thì họ hay hỏi tôi, ngoài ra tôi không biết điều gì khác. Tôi cũng tự nghĩ như vậy, nên không muốn chen vào những lĩnh vực nhạy cảm mà tôi không thông thạo như kinh tế, xã hội, đặc biệt là các vấn đề an ninh, chính trị và thời sự quốc tế!

Cách đây vài tháng, khi xây dựng chương mục Địa linh của Chương trình văn hóa 1000 năm Thăng Long, một nhóm nghiên cứu của Ban khoa giáo Đài truyền hình trung ương đến gặp tôi để lấy tài liệu về Địa mạch và Hồn cốt Thăng Long. Giữa chừng câu chuyện, họ hỏi tôi “Chị nghiên cứu đề tài này lâu chưa?” Tôi lưỡng lự giây lát, rồi trả lời họ: “Khoảng chừng đã 55 năm”

– “Cái gì? 55 năm?”

– “Vâng! từ ngày còn là con bé con”.

Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi phải chứng kiến, phải tìm hiểu từ ngày tôi còn nhỏ. Vào đại học, tôi làm đơn thi Bách khoa vô tuyến điện hoặc Tổng hợp Lý toán, nhưng lại bị phân công theo ngành Kiến trúc. Sau này, tôi học phong thủy cho biết để hành nghề kiến trúc sư, càng ngày tôi càng ý thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng, đúng là nghiệp đời người đặt tôi vào tình huống liên tiếp phải va chạm với những sự thật và tôi không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc lại rằng kiến thức của tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy tai nghe, không phải từ lý thuyết.

Sự thật và trải nghiệm

Tôi xin mở đầu câu chuyện nghiêm túc này bằng mối “quan hệ” của tôi với vấn đề Trung Quốc mà tôi sắp kể ra, đó là lý do thôi thúc tôi phải đi sâu tìm hiểu bản chất của mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Trung Hoa này. Có thể có những nhà nghiên cứu chiến lược lâu năm có cách nhìn khác và chưa công nhận những điều tôi sắp nói, nhưng với trách nhiệm của một công dân, một người con đất Việt, tôi như là một nhân chứng có thể khẳng định rằng ít ai có cơ hội để “hiểu” Trung Quốc hơn tôi. Cho nên, dù đã có thời gian dài tôi tránh nhắc tới những chuyện đó, nhưng càng tránh tôi càng thấy phải nói ra hôm nay để mọi người cùng biết.

Đúng vậy, tôi không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở Thượng Hải, cái thời mọi người hay hát “Việt Nam – Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông / Chung một Biển Đông, thắm tình hữu nghị…”; trước đó tôi đã có hai kỷ niệm sâu đậm và rất hãi hùng liên quan đến Trung Quốc.

Kỷ niệm thứ nhất: Cải cách ruộng đất năm 1953

Ngày ấy tôi còn nhỏ lắm. Vùng quê ngoại Đức Thọ Hà Tĩnh, nơi chúng tôi theo mẹ tản cư về đã hết yên ổn của vùng tự do thời kháng chiến và bắt đầu chịu cảnh máy bay bắn phá. Nhưng, cuộc “bắn phá” tàn khốc hơn lại chính là những cuộc đấu tố địa chủ và Việt gian phản động trong mọi làng xã ở Hà Tĩnh lúc bấy giờ. Ông ngoại tôi là một thầy thuốc Đông y giỏi có tiếng, chuyên nghề xem mạch bốc thuốc và ông tôi đã cứu sống nhiều người nên được dân trong vùng nể trọng gọi bằng thầy. Tiền bạc chắc chẳng có nhiều, nhưng mùa nào thức nấy, trong nhà ông ngoại tôi không bao giờ thiếu của ngon vật lạ do gia đình bệnh nhân mang đến tạ ơn cứu mạng như rổ lạc đầu mùa, cân đỗ xanh, thúng gạo nếp, mớ khoai lang, nải chuối chín, có khi còn có cả con gà sống thiến hay chục trứng tươi… Nhà chỉ có hơn một mẫu ruộng, ông ngoại tôi giao hẳn cho mấy người bà con trong họ trồng cấy và không thu tô, nhưng trong CCRĐ ông tôi vẫn bị quy là địa chủ, mà là địa chủ cường hào.

Mẹ tôi nguyên gốc là cô gái làng dệt lụa Tùng Ảnh ở Đức Thọ, đã theo ông ngoại ra sinh sống ở Hà Nội nhiều năm và có cửa hàng bán tơ lụa ở Hà Nội. Đêm toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, mẹ tôi đã bỏ lại hết nhà cửa và tài sản, đưa chúng tôi tản cư về Đức Thọ Hà Tĩnh, vận động nhiều nữ thanh niên bỏ nghề dệt lụa, xây dựng một nghề mới là xe sợi, nhuộm sợi và đan áo rét cho bộ đội. Cặm cụi làm việc đó, mẹ tôi vừa nuôi sống cho gia đình và bản thân, vừa đóng góp tích cực cho kháng chiến. Tôi còn nhớ bài hát “Áo mùa đông” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác vào những ngày đó: “Gió bấc heo may / xào xạc rung cây lá lá bay / một mùa đông bao người đan áo…” chính là nói về công việc của mẹ tôi và các chị, các cô trong Hội phụ nữ kháng chiến cứu quốc. Vào những ngày đó, ở vùng tự do nghèo nàn Thanh Nghệ Tĩnh làm gì có len để đan áo, sáng kiến xe sợi bông, nhuộm sợi thành các màu xanh, màu nâu, màu cỏ úa rồi đan thành áo gửi ra chiến trường, đã được ca ngợi như một chiến công lớn.

Nhưng trong CCRĐ thì công cũng thành tội, có một người bạn thân hồi nhỏ của mẹ tôi là Bí thư chi bộ xã đã treo cổ tự tử vì bị truy bức quá, lập tức mẹ tôi bị gán tội là trùm Quốc dân đảng đã giết ông Bí thư đó để bịt đầu mối hoạt động gián điệp và mẹ tôi liền bị lôi ra đấu tố. Cay đắng hơn cả là người được Đội cải cách bôì dưỡng để đứng lên đấu tổ mẹ tôi hăng nhất lại là một bà bạn cũng tản cư từ thành phố về và đã được mẹ tôi đưa vào tổ đan áo binh sĩ.

Cha tôi đang ở vùng ATK của chiến khu Việt Bắc nghe tin đó thì hoảng hốt, vội vào Hà Tĩnh đón chị em tôi lên Việt Bắc để lánh nạn. Vừa đặt chân đến Chợ Chu – Định Hóa – Thái Nguyên thì tôi được nghe câu chuyện họ vừa xử bắn bà Nguyễn Thị Năm ở thôn Đồng Bẩm huyện Đại Từ. Một vụ xử bắn oan nghiệt đối với một người phụ nữ từng có công lớn mà đến nay mọi người vẫn còn nhớ.

Trong các xó xỉnh của Việt Bắc hồi đó, người ta bàn tán về hoạt động của các chuyên gia Trung Quốc sang giúp ta kinh nghiệm phát động quần chúng đấu tranh giảm tô và đòi ruộng đất về chia cho dân cày mà Việt Bắc và vùng tự do Liên khu 4 được chọn làm điển hình.

Sau này, khi ông ngoại tôi đã mất rồi, đại gia đình có dịp gặp nhau ôn lại chuyện cũ, mọi người đều bảo nhau hãy nén lòng quên nỗi đau buồn đó đi.

Kỷ niệm thứ hai: Trời phạt

Chưa hết hoang mang về chuyện bức hại chém giết lẫn nhau trong CCRĐ, thì chúng tôi được ném vào “Trận đồ bát quái” của tháng hữu nghị Việt – Trung – Xô.

Liên Xô thì ở tận đẩu tận đâu xa xôi lắm, nhưng Trung Quốc thì ở ngay bên cạnh. Suốt ngày hễ gặp nhau ngoài đường dù chưa quen biết là người ta cũng liền nắm tay nhau hát múa rộn ràng. Hòa bình lập lại, Chính phủ về tiếp quản Thủ đô, thì trên đường phố Hà Nội cũng xuất hiện rất nhiều chuyên gia Trung Quốc. Còn nhỏ xíu nhưng tôi dễ dàng nhận ra họ vì cái áo kiểu Tôn Trung Sơn rộng thùng thình dài đến gần đầu gối, cái quần xanh công nhân cũng rộng thùng thình và cái mũ lưỡi trai bằng vải cũng mầu xanh như vậy. Tòa dinh thự hoành tráng của Hoàng Trọng Phu trước Vườn hoa Canh nông và các biệt thự kế tiếp trên phố Hoàng Diệu và phố Khúc Hạo trở thành Đại sứ quán và khu dành riêng của người Trung Quốc. Mỗi buổi sáng sớm họ đứng kín nửa Vườn hoa Canh nông tập thể dục và hô “I, ơ, xan, xư” ầm vang khu phố Cột Cờ.

Ngày đó gia đình tôi ở gần kề các Đại sứ quán. Là con bé mới học đến cấp 2, tôi không thể hiểu nổi những chuyện đã xẩy ra, nhưng tôi có thói quen ghi nhật ký. Đến tận bây giờ tôi vẫn còn giữ được những trang nhật ký trẻ thơ ghi tỷ mỷ kỷ niệm về lễ mít tinh ngày 1/1/1955 nhân dân Thủ đô chào đón TW Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc trở về, đặc biệt trong cuốn nhật ký cũ ấy, tôi có ghi lại kỷ niệm về một người con gái Trung Quốc tên là Khương Nãi Tuệ, chị ta được tôi tặng hoa và tặng khăn quàng đỏ trong buổi chiêu đãi Đoàn văn công Tề Tề Cáp Nhĩ do Chủ tịch UBND thành phố Trần Duy Hưng tổ chức tại Cung thiếu nhi Hà Nội tối hôm 10/9/1955 và cả câu chuyện chiều hôm sau, ngày 11/9/1955, chị Văn công Khương Nãi Tuệ bị chết trong cơn lốc Hồ Tây, khi chị ta đang đóng vai Sen Chúa trong điệu Múa Hoa Sen, trên chiếc sân khấu ghép tạm cạnh Đầm Trị – Phủ Tây Hồ.

Khương Nãi Tuệ chết, mang theo chiếc khăn quàng đỏ do tôi tặng. Cùng chết trong tai nạn đó còn có nghệ sĩ thổi sáo Phùng Tử Tồn và hai người nữa. Mộ của họ mai táng ở nghĩa trang Bất Bạt huyện Ba Vì.

Sau cơn lốc khủng khiếp đó, tôi hay rơi vào tâm trạng ngẩn ngơ vì luyến tiếc chiếc khăn quàng đỏ thì ít mà vì sợ hãi như thể tôi có liên can tới cơn lốc làm lật úp ba chiếc thuyền và hại chết cô nghệ sĩ múa thì nhiều, nên tôi hay đi lang thang nghe ngóng chuyện người lớn. Rất nhiều câu chuyện nhỏ to đập vào tai tôi về một âm mưu yểm huyệt Hồ Tây nhưng bất thành và những người tham gia vào âm mưu đó đã bị Trời phạt. Ngày đó Trung Quốc và Việt Nam thân nhau lắm, nên người ta chỉ dám xầm xì nửa kín nửa hở và một cô bé con như tôi không sao hiểu nổi thứ tình hữu nghị quái gở gì mà “người bạn lớn thân thiết” lại tìm mọi cách làm hại “đứa em tội nghiệp” vừa thoát khỏi chiến tranh chống Pháp và đang rơi vào cuộc chiến tranh chống Mỹ?

Mấy chục năm sau, để giải tỏa tâm lý cho tôi quanh chuyện chiếc khăn quàng đỏ, nhà ngoại cảm Phan Oanh làng Xuân Đỉnh tặng tôi một bài thơ dài, trong đó có mấy câu: “Tâm con trẻ hồn nhiên không xấu / Dấu nhà Trời ai thấu được đâu / Một dải khăn đào kết một cái cầu / Để hồ thẳm nước sâu / Bà là nhịp cầu giữ yên non nước…”.

Du học ở Trung Quốc

Tuổi trẻ hồn nhiên với nhiều ham thích đã có lúc cuốn hút tôi, khiến tôi tạm quên đi cảm giác hoang mang lẫn sợ hãi hồi nhỏ.

Năm 1960 tôi tốt nghiệp phổ thông trung học, được miễn thi đại học, tôi được cử đi học ngoại ngữ để sang Trung Quốc theo học ngành kiến trúc. Niềm háo hức khiến tôi và các bạn cùng lứa sung sướng trong cảnh được “ăn cơm Bác Mao”, được chăm sóc dạy dỗ ân cần, lúc ốm đau được đầu bếp nấu những món ăn theo ý thích rồi mang đến tận phòng riêng phục vụ tận tình.

Những năm tháng đó, mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của chúng tôi đều được chăm sóc đặc biệt. Học Kiến trúc thì được học vẽ mỹ thuật trong 3 năm đầu, học kỳ nào chúng tôi cũng được thầy giáo là một hoạ sĩ danh tiếng dẫn đi vẽ dã ngoại ở các khu danh lam thắng cảnh cách Thượng Hải hàng trăm cây số, như các thành phố Hàng Châu, Vô Tích, Tô Châu và ở hẳn đấy vài tuần. Ông họa sĩ già hai bàn tay lấm mầu nhem nhuốc tận tình hướng dẫn chúng tôi cầm bút lông chấm phá các mảng mầu xanh đỏ, còn vợ ông thì đi theo chăm sóc chồng và cần mẫn gọt những trái lê trái táo bê đến từng góc vườn chia cho đám học trò chúng tôi. Ngoài ra, những ngày ở trong trường chúng tôi luôn luôn được hưởng ưu đãi hơn người, riêng tôi vì ham thích âm nhạc nên còn được giữ chìa khoá một căn phòng có chiếc Piano sang trọng để tự do luyện tập. Đó là những thứ mà khi ở nhà với cha mẹ, tôi chưa bao giờ dám mơ tới.

Chưa bao giờ tôi tự đặt cho mình câu hỏi: “Có phải họ đang vỗ béo chúng tôi để sau này về nước chúng tôi sẽ trở thành hạt giống cho họ gieo mầm bành trướng phá hoại đất nước mình hay không?” Chưa bao giờ tôi tự hỏi như thế cả, nhưng trong lòng không thể không gợn lên những thắc mắc vô cớ. Tôi biết Trung Quốc ngày đó còn nghèo lắm, các bạn sinh viên Trung Quốc phải ăn ở chen chúc trong những căn phòng chật chội của ký túc xá, bữa cơm của họ chỉ có chiếc bánh bao không nhân, một bát cháo hoa loãng và vài miếng ca-la-thầu.

Ngược lại tôi và chị bạn gái người Sài Gòn tập kết thì được hai cô bạn người Thượng Hải nữa ở cùng trong một ngôi nhà dành riêng cho giáo viên và trợ giảng. Đó là một tòa nhà 2 tầng có nhiều phòng, chúng tôi ở tầng hai cùng các giáo viên nữ, còn tầng một dành cho giáo viên nam. Đã là giáo viên và trợ giảng đại học, nhưng họ còn rất trẻ và đều chưa có gia đình riêng. Tôi hay lui tới thăm nom họ và ái ngại thấy họ sống rất đạm bạc. Hóa ra họ phải nhịn ăn nhịn mặc để nuôi chúng tôi. Tôi phát hiện biết có một thầy giáo bị bệnh gan và tiểu đường rất cần bồi dưỡng nhưng tiêu chuẩn tem phiếu không đủ cung cấp, thầy luôn luôn bị ngất xỉu, thấy vậy tôi hay đi mua thêm các thức ăn mang đến biếu thầy. Chúng tôi trở thành người thân của các thầy cô giáo. Có những buổi chiều ngày thứ 7, khi 2 cô bạn Thượng Hải đã về nhà, tôi và chị bạn Sài Gòn xuống ghế đá trên vườn hoa ngồi hóng gió, thì các thầy cô giáo lân la đến bên chúng tôi, họ tâm sự, chuyện trò và cho chúng tôi biết rất nhiều chuyện bí mật trong trường và trong xã hội, tôi có cảm giác như đất nước này sắp có đại loạn.

Rồi đại loạn đến thật, cách mạng văn hóa nổ ra, đại đa số học sinh trung học và sinh viên đều bỏ học, xuống đường tham gia Hồng vệ binh. Chúng tôi phải chứng kiến cảnh suốt ngày Hồng vệ binh đi phá phách, hò hét, rạch quần áo, cắt tóc người qua đường và báo chữ to xuất hiện khắp mọi nơi. Thê thảm hơn là chính mắt chúng tôi được chứng kiến các Giáo sư trong trường đã từng giảng dạy chúng tôi tận tình, bị làm nhục ngay trong sân trường bằng cách phải đeo các biểu ngữ bằng giấy báo dán trên lưng hoặc đội những chiếc mũ có chóp nhọn, ghi những dòng chữ tục tĩu.

Là một đứa con gái xuất thân trong một gia đình có nền giáo dục truyền thống ở Việt Nam, tôi không sao chấp nhận nổi thứ triết lý cách mạng cho phép học trò đấu tố thầy, hành hạ và sỉ nhục thầy như vậy. Nhận thức về một nước Trung Hoa có truyền thống văn hóa lâu đời, hơi phong kiến một chút, nhưng rất nề nếp và rất có kỷ cương đã hoàn toàn sụp đổ trong tôi. Đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi phải chứng kiến hiện tượng vô đạo và bất nhân đáng sợ đó. Rất lâu về sau tôi vẫn không thể hàn gắn được vết thương như những nhát chém trong tim mình, về hình ảnh những Giáo sư đáng kính của chúng tôi bị hành hạ lên bờ xuống ruộng bởi chính những người bạn sinh viên đã từng học tập ca hát bên chúng tôi. Trong số đó, tôi biết, có người không muốn hành xử đê tiện như vậy, nhưng nếu họ đi ngược lại phong trào chung, thì chính họ bị lôi ra đấu tố.

Chúng tôi rất sợ bị liên lụy nên nín lặng quan sát và nhìn nhau thầm hỏi: “ Họ đang cắn xé nhau, đến bao giờ thì họ cắn mình đây?”

Đó là giữa năm 1966, đúng lúc chúng tôi làm xong đồ án tốt nghệp, trường học gần như không hoạt động, chúng tôi không được bảo vệ luận án tốt nghiệp mà chỉ được cấp bằng có đóng dấu nhưng không có chữ ký. Chúng tôi khăn gói vội vàng rút về nước. Tất cả bạn học và thầy giáo đã bị đưa đi ra khỏi trường, một số đi lao động quản thúc ở vùng nông thôn nào đó, một số khá đông đang là Hồng vệ binh ngày ngày đi đập phá hò hét hoặc đả đảo ai đó. Cảnh Trường đại học Đồng Tế, ngôi trường được xếp loại nhất nhì Trung Quốc, do người Đức thành lập đã gần 100 năm trở nên hoang vắng buồn thảm đến lạnh sống lưng. Giáo sư nổi tiếng Lý Đức Hóa, người từng được nhiều giải thưởng Quốc tế và bà vợ Bác sĩ người Đức của ông không biết đã trôi dạt đi đâu? Lúc chúng tôi lên xe để ra ga về nước, chỉ có mấy ông bà cấp dưỡng từng chăm sóc bữa cơm hàng ngày lặng lẽ gật đầu đưa tiễn chúng tôi, mắt họ rơm rớm lệ.

Đến lúc đó thì tình cảm trong tôi hoàn toàn mất phương hướng và tôi thực sự hiểu rằng người dân lao động Trung Quốc rất tốt, giới trí thức Trung Quốc cũng thật tốt, các bạn học của tôi cũng tốt lắm. Nhưng các nhà cầm quyền? Tôi không sao hiểu nổi các nhà cầm quyền và thứ “tình hữu nghị” mà suốt ngày họ ra rả trên đài phát thanh và trên báo chí. Tôi rất muốn tìm hiểu xem cái gì là động lực thúc đẩy họ? Nhưng điều đó nằm ngoài khả năng của tôi.

Chúng tôi rời Thượng Hải buồn bã và vội vàng như ma đuổi.

Thời kỳ đã trưởng thành

Chúng tôi về đến nhà đúng vào lúc máy bay Mỹ đang đánh phá Miền Bắc ác liệt. Không khí cả nước có chiến tranh cuốn hút chúng tôi, khiến chúng tôi tạm quên đi những cảm giác khó chịu của những ngày cuối cùng sống trên đất Thượng Hải. Ngày ấy sinh viên từ nước ngoài về vẫn chưa nhiều, nên hôm đầu tiên về nhận công tác ở Bộ Kiến trúc, chúng tôi đã được Bộ trưởng Bùi Quang Tạo đón tiếp ân cần. Bộ trưởng khuyên chúng tôi vứt bỏ lối sống cậu ấm cô chiêu ở nước ngoài và sớm thích nghi với khẩu hiệu “Ba sẵn sàng” của thanh niên thời chiến.

Sau đó, mỗi người đến nơi sơ tán ở các làng quê theo địa chỉ riêng của từng đơn vị công tác. Viện Quy hoạch đô thị của tôi ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Yên.

Vĩnh Tường của bà Hồ Xuân Hương rất đẹp, nhưng chỉ đẹp ban ngày. Còn đêm đến, khi ngồi tư lự một mình bên ngọn đèn dầu trong nhà dân, những ký ức thời trẻ thơ và những kỷ niệm ở Thượng Hải lại ập về khiến tôi suy nghĩ nhiều lắm.

Lúc này đã đủ lớn để có những chính kiến của riêng mình, nhưng tôi không thể nói ra với ai. Tôi ở cùng nhà với một chị tốt nghiệp ở thành phố Kiev về, chúng tôi quý nhau và luôn giúp đỡ nhau, còn “Liên Xô xét lại” và “Trung Quốc giáo điều” thì mặc kệ họ, miễn là họ vẫn đang giúp ta những chiếc máy bay Mic bay trên bầu trời và những phong lương khô để chống đói.

Dù sao, 5 năm ở Thượng Hải cũng để lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp hơn kỷ niệm xấu, tôi cố tự lý giải rằng sự cố đã xẩy ra là do sự quá đà của một nhóm người hãnh tiến nào đó. Khoảng 10 năm tiếp theo, không thể liên lạc thư từ với bạn học cũ, nhưng tôi theo dõi và nuôi trong lòng chút hy vọng đổi thay của một đất nước đã nuôi tôi ăn học thời sinh viên, ở đó tôi từng có những thầy giáo và bạn học thân thiết. Khi nghe tin ông Đặng Tiểu Bình được phục chức, tôi những tưởng tình hình sẽ khá hơn, nhưng tôi chưa kịp mừng thì liền xẩy ra cuộc tấn công biên giới đầu năm 1979 do ông Đặng Tiểu Bình chỉ huy để “Cho Việt Nam một bài học”. Không chỉ có thế, mười năm sau lại thấy cuộc tàn sát đẫm máu nội bộ của Sự kiện Thiên An Môn cũng do Đặng Tiểu Bình chỉ huy, tôi thực sự thất vọng và hiểu rằng những người cầm đầu nhà nước Trung Quốc thời nào cũng vậy, họ chống nhau, phá nhau chỉ vì tranh cướp quyền lực và càng lộ rõ thói cường quyền, tàn bạo kiểu thời Trung cổ của họ mà thôi.

Trung Quốc hôm nay?

Sau 60 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, chẳng tìm hiểu kỹ thì ai cũng biết Trung Quốc đã thay đổi rất nhiều và rất đáng kính nể. Tuy vậy, khi tôi trở lại thăm trường cũ, thăm thầy giáo và thăm bạn học cũ, thì tôi hiểu: ngoài bộ mặt hào nhoáng đầy khí thế của một Trung Quốc đại nhảy vọt mà họ đang ra sức quảng bá, vẫn còn có một Trung Quốc khác rất âm thầm, u uất và đau đớn của tầng lớp trí thức và những người dân lương thiện ở trên khắp nước Trung Hoa đã từng bị chà đạp, bị sỉ nhục và chịu nhiều đắng cay trong nửa thế kỷ qua. Tầng lớp này không ít đâu, con số có thể đến hàng trăm triệu hoặc hơn và đang sống trên khắp miền của đất nước họ. Chính quyền hiện tại đang áp đảo họ, khiến họ phải câm lặng, nhưng chính quyền không thể thu phục được lòng họ và họ sẽ bùng lên bất cứ lúc nào.

Đến Thượng Hải, tôi thấy Thượng Hải thay đổi rất nhiều. Nhưng khi tôi về thăm trường cũ, đến thăm thầy cô giáo cũ vẫn đang sống trong “Đồng Tế tân thôn” bên cạnh trường và thăm nhà riêng một vài bạn học cũ, tôi thấy một cuộc sống khác hẳn. Họ rất nghèo nàn và thật khắc khổ. Có bạn vừa gặp tôi, liền ôm hai vai tôi và khóc nức nở. Đây không phải vì họ cảm động, vì mừng vui hội ngộ sau nhiều năm xa cách. Họ khóc vì gặp lại chúng tôi là gặp lại nhân chứng của một thời nhục nhã và đáng xấu hổ. Tôi đọc được tình cảm đó khi tôi xem bộ phim truyện “Nghiệp chướng” nói về những éo le và mất mát đeo đẳng suốt đời lớp thanh niên trí thức Thượng Hải, trong đó có rất nhiều người từng là bạn tôi. “Nghiệp chướng” là cái giá rất đắt mà những người cầm đầu đất nước này đã gây ra cho bao gia gia đình trí thức để rồi đến lúc họ sẽ phải trả. Một người bạn tôi nói với tôi: “Tôi từng là Hồng vệ binh và đang là nạn nhân của Hồng vệ binh suốt đời. Đó là lũ con tôi, cháu tôi hôm nay”.

Có trong tay cuốn địa chỉ và số điện thoại của bạn cũ ở khắp nơi, chúng tôi đã dành ra gần 2 tháng đi thăm bạn và để quan sát sự thay đổi của nước Trung Hoa. Nhưng khắp Trung Quốc hôm nay, ngoài những người rất câm lặng, rất đau khổ như tôi vừa nói, còn lớp người Trung Quốc thứ ba đang vừa là chỗ dựa vừa là gánh nặng uy hiếp Nhà nước Trung quốc: Bọn này đông lắm. Đó là lũ lưu manh mạnh vì gạo bạo vì tiền. Đáng tiếc, các vị trong chính quyền Nhà nước Trung Hoa đã từng có thói quen dùng bọn lưu manh này làm “chỗ dựa” để đối phó với các lực lượng thù địch, nhưng khi không cần nữa hoặc không sử dụng được nữa thì họ tiêu diệt “chỗ dựa” đó đi.

Tôi nhớ lại ngày chúng tôi chuẩn bị về nước năm 1966, bà Giang Thanh nổi lên oai phong y như Võ Tắc Thiên ngày xưa, cạnh bà có 3 kẻ thân cận là Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên và Trương Xuân Kiều, tạo thành một “Bộ tứ trụ” điều khiển gần một tỷ dân. Nhưng thời nay còn có rất nhiều người cao thủ hơn bè lũ bốn tên thời đó. Thời nay có các băng đảng lưu manh kết hợp với công an và chính quyền hình thành hệ thống Mafia ở khắp mọi nơi. Sự kiện triệt phá Mafia ở thành phố Trùng Khánh vừa qua là một thí dụ. Không thể tin được trong một đô thị hiện đại của một quốc gia hùng mạnh mà bọn lưu manh côn đồ bị truy bắt trong một đợt đã lên đến ngót 2000 tên, trong số đó có cả Giám đốc Sở Tư pháp và nhiều sĩ quan công an.

Cuôí cùng, có thể quan sát “Trung Quốc hùng cường hôm nay” bằng cách quan sát những người Trung Quốc đang xuất hiện ở Việt Nam ngày càng nhiều với vai trò lao động chui. Những người này có thể vì đói khát quá hoặc vì đã là tội phạm bị giam cầm lâu quá, nay được đưa sang đây để sống cuộc đời phá phách, trộm cắp, lừa đảo và để tìm cách lấy vợ sinh con và sẽ là lực lượng nằm vùng nội ứng cho các cuộc tấn công của quân chính quy sau này.

Lũ người này có đáng sợ không? Làm cách nào để dẹp chúng? Thiết nghĩ mọi người đều hiểu.

* * *

PHẦN II

TÔI HIỂU GÌ VỀ TRUNG QUỐC?

Sau khi đã biết quá rõ mục tiêu truyền kiếp của nhà cầm quyền Trung Hoa suốt mấy ngàn năm là trấn áp nội bộ, tranh chấp quyền lực và chiếm bằng được đất nước ta, tôi quyết định xin về hưu từ năm 1992 với nhiều lý do riêng, một lý do trong đó là muốn tập trung thời gian vào nghiên cứu các lý thuyết về phong thủy địa mạch, thứ lý thuyết mà từ năm 1955 tôi đã “không may” bị tận mắt chứng kiến.

Chúng ta phải cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các giáo sĩ Bồ Đào Nha có công đầu về việc sử dụng chữ gốc La-tinh để phiên âm tiếng Việt trong việc truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ XVI-XVII như Francisco de Pina, đến người biên soạn cuốn từ điển Việt-Bồ-La đầu tiên là Alexandre de Rhodes (1651) và nhất là người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ XIX để trở thành chữ viết chính thống của nước ta đầu thế kỷ XX là Bá Đa Lộc – Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine. Cám ơn các vị Giáo sĩ đã góp phần giúp ta thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ hở khiến lớp trí thức trưởng thành trong thế kỷ XX đã lãng quên một số cơ sở quan trọng của khoa học Phương Đông, trong đó có Phong thủy, Địa mạch và Kinh Dịch.

Sau 17 năm nghỉ việc ở Bộ Xây dựng, tôi đã cố bù lại những lỗ hổng mà lớp trí thức ở lứa tuổi của tôi đã mắc phải. Lúc này tôi đã có nhiều thời gian để hiểu rõ trong cấu trúc phong thủy địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm quyền Trung Quốc rất thèm muốn. Họ thèm muốn vì họ không có và họ hiểu rằng làm chủ được cái đó là họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ được cả thế giới. Tôi nói nhà cầm quyền thèm muốn chứ không phải nhân dân, bởi vì thực hiện mộng bá quyền, người dân lương thiện Trung Quốc không hề được hưởng lợi.

Hệ Địa mạch nước Trung Hoa: Chiếc bánh sandwich

Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, núi, sông… chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich


Nước Trung Hoa hình quẻ chấn

Theo phân tích và tổng kết hệ thống đã công bố tháng 5/2005 của KTS Lý Thái Sơn, thì đó là một thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại càn long sẽ bị trôi tuột đi bất cứ lúc nào, đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà, khu kẹp giữa Hoàng Hà và Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ Chấn gồm hào một liền và hào hai gãy, hào ba gãy có nghĩa là sấm sét, không ổn định, dễ vỡ tung; cũng như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có mối quan hệ về kinh tế, phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành 4 hoặc 5 quốc gia độc lập.

Mặt khác, ngay cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết quả của một quá trình chiến tranh và đồng hóa lẫn nhau, vì người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người ta có chính sách cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị phản đối và ở nước Trung Hoa chưa bao giờ hết nội chiến. Ở Trung Hoa không có hai chữ “ĐỒNG BÀO” và trên đất nước này không có cụm từ sức mạnh đoàn kết toàn dân. Hiện nay không chỉ Đài Loan là quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao… đang như các quốc gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra thì các quốc gia đó sẽ giàu có và trù phú hơn nhiều. Còn Bắc Kinh thì luôn phải dùng biện pháp đàn áp. Họ đàn áp ở ngay giữa Thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dã man các vùng xa xôi như Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009.

Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cứu kỹ phong thủy địa mạch và họ ý thức được rằng có một cách vãn hồi được điểm yếu cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Hymalaya qua cao nguyên Tây Tạng, qua cao nguyên Vân Nam, qua đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống vịnh Hạ Long rồi đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11Km ở vịnh Mindanao Philippin. Đó cũng là mạch đất độc đáo nối từ “Cổng Trời” đầy thiên khí đến “Địa Huyệt” đầy của cải có độ cao chênh nhau ngót 20Km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc bánh sandwich đó, không cho nó trôi trượt đi, mà họ còn có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức “củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được” để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.

* Sau hàng ngàn năm với nhiều thủ đoạn, cao nguyên Vân Nam rộng 390.000Km2 có 26 dân tộc đến nay đã bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc Di, dân tộc Choang mỗi ngày một ít, người Hán đã di cư về đây trên 20 triệu và thành phố Côn Minh hiện đại hơn ba triệu dân ngày nay là thành phố của người Hán (người Hán thật thì ít, người Hán mới bị đồng hóa thì nhiều).

Cung điện Tây Tạng Potola

* Ngược lại, khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là Thủ đô của Đạo Phật, vốn là một quốc gia độc lập văn minh, đã bị chính thức lệ thuộc vào Trung Hoa từ năm 1914 đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhã cho một chính thể, một Nhà nước suốt ngày hô hào “đoàn kết các dân tộc” lại đang đàn áp và hủy diệt người Tây Tạng, đập phá chùa chiền đến mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân tộc Tạng là Đức Đa Lai Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đã khiến Ấn Độ và các quốc gia Tây Á không thể làm ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà nước Trung Quốc sẽ không thể đạt được cái họ muốn (Tây Tạng).

Còn ở Việt Nam chúng ta? Lịch sử bốn ngàn năm của nước ta là lịch sử chống ngoại xâm. “Ngoại xâm” đây là chỉ giặc Phương Bắc, bởi vì Phương Đông, Phương Tây và Phương Nam gần như không có. Hơn hai ngàn năm qua thì giặc ngoại xâm đã bị chỉ đích danh những những nhân vật cụ thể như Triệu Đà, Mã Viện, Cao Biền… Bởi thế ta rất cần biết tại sao họ quyết chiếm nước ta và tại sao họ không thể chiếm nổi?

Địa mạch Việt Nam: Khúc quan trọng trong địa mạch toàn cầu

Trong quá trình địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra dãy núi cao đóng vai trò đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như phần trên đã phân tích. Sau Tây Tạng, Vân Nam, thì đồng bằng Bắc Bộ nước ta là phần rất quan trọng của mạch đất này (đọc Đại địa mạch quốc gia). Dãy Hymalaya chạy vòng vèo như hình con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Xi Pan cao 3143m, đến Việt Trì mạch đất lặn xuống, tỏa ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG NÚI CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lý Thái Tổ chọn nơi này dựng Kinh đô Thăng Long thì người Trung Hoa đã dòm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền tấu thư kiểu tự là một trong những kết quả tìm kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài giỏi gốc Mãn Châu thì vùng đất nhỏ bé này tụ hội rất nhiều linh khí đất trời và sản sinh ra nhiều hiền tài, ông ta tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1617 huyệt bàng, huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đường Y Tông yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đã xây thành Đại La, mưu đồ thực hiện mộng bá vương và đã bị vua Đường trị tội. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ ngơi nghỉ trong đầu các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày 11/9/1955 mà tôi vô tình chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.

Hiện nay họ biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, họ đi vòng vèo từ phía Tây qua Lào, qua Cam pu chia và họ đang chiếm Bauxite Tây nguyên, còn tại Trung tâm Thủ đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta? Tinh ý, chúng ta sẽ biết.

Địa mạch Việt Nam: Vùng Biển Đông, yết hầu của Đông Nam Á

Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta còn có vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có vịnh Bái Tử Long, và ngoài khơi xa của Hải Phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra còn có nhiều đảo có tên liên quan đến Rồng như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng…, cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xòe ra ở đồng bằng Bắc Bộ, đi xuống nước ở Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy Đại dương thuộc vịnh Mindanao thuộc Philippin. Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến Trung Quốc quyết tâm xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công bố đường lưỡi bò chín đoạn trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp đến 5 quốc gia Đông Nam Á và nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thừa của chính quyền Quốc dân Đảng từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng vậy, mưu đồ bá quyền của chính quyền nhà nước Trung Quốc không thay đổi. Chắc hẳn lúc này không chỉ các nước Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia và Malaysia ý thức được đường lưỡi bò này vi phạm đến chủ quyền của mình, mà gần như cả thế giới đã nhận ra mưu đồ chiếm cứ con Rồng lớn nhất thế giới của nhà nước Trung Hoa, bởi vì chiếm cứ được cái yết hầu này là họ chiếm được cả Châu Á và một khi chiếm được Châu Á rồi thì bước đi tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó có Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước Châu Âu có để cho họ làm điều đó không ?

Địa mạch Việt Nam: Cấu trúc Âm Dương hoàn chỉnh

Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi đầu tiên của Nhà nước Văn Lang, nhưng hình chữ S của Con Rồng đất nước Việt Nam ngày nay đã tạo nên một thế cân bằng Âm Dương rất hoàn chỉnh. Như sự ví von của nhà thơ Xuân Diệu, thì Đất nước ta như một con tàu / Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.

Núi chầu sông tụ Thăng Long theo hình thế Âm Dương

Điều đó cho thấy từ mấy ngàn năm trước cái nôi đồng Bằng Bắc Bộ đã vững như bàn thạch, từ thế kỷ XVI trở lại đây, khi đất nước đã phát triển xuống phía Nam thì con thuyền đất nước đã đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho thấy đã là con thuyền thì các phần mũi thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không thể tách rời nhau. Bởi vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức được sự sống còn của vận mệnh đất nước, để xác định thái độ và hành động của mình.

LỜI CUỐI BÀI

Để kết thúc bài viết, tôi muốn quay lại những dòng mở đầu, rằng tôi không có chút năng khiếu nào trong những vấn đề kinh tế, xã hội và an ninh chính trị, nhưng do nghề nghiệp và do số phận, tôi đã có dịp hiểu rất sâu vào cốt lõi của vấn đề kinh tế và chính trị trong mối quan hệ với Trung Quốc hiện nay. Bởi vậy tôi muốn khuyên tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi và chưa có dịp trải nghiệm như tôi, là hãy tỉnh táo để thoát ra khỏi cõi u mê của sự hoang tưởng trong mối quan hệ với Trung Quốc. Cha ông ta đã trải qua hàng ngàn năm mới đưa ra được lời dạy bảo và bản thân tôi phải trải qua hơn 55 năm để chiêm nghiệm và thấm nhuần lời dạy bảo của cha ông.

Tôi biết, lúc này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi, nhưng vẫn còn khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người còn rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ vì đôi lúc chính tôi cũng tin ở họ và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và suy ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh đó?

Đông dân là một sức mạnh

Đúng vậy, ngày tôi đang học ở Thượng Hải thì Trung Quốc mới xây xong cầu Trường Giang, họ rất tự hào nói rằng, chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người tiết kiệm một cái bánh bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc làm tốt.

Trong thế vận hôị 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân vận động Tổ Chim độc đáo hết 432 triệu USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân thì họ phải cắt xén của mỗi người 0,32 USD, việc đó có vẻ cũng vẫn tốt.

Mô hình hàng không mẫu hạm ở Vũ Hán

Hiện nay họ đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại hàng không mẫu hạm trên Biển Đông và các căn cứ hải quân… tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được đủ để dọa nạt chúng ta và các nước trong vùng.

Có điều, một thảm họa đông dân mà Nhà nước không vì dân thì Nhà nước sẽ khốn đốn. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu hết các thành phố lớn như Thâm Quyến, Thượng Hải, Quảng Châu… đang chia cắt quyền lực của đất nước họ hay không? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược.

Vậy thì mọi nỗ lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không?



28 November 2009

TỪ MEET VIỆTNAM Ở SAN FRANCISCO TỚI HỘI NGHỊ VIỆT KIỀU TẠI HÀNỘI


Trong khi đó, hàng ngày, hàng giờ, người Việtnam ở nước ngoài lại thường xuyên “Meet Việtnam” qua tin tức và hình ảnh từ truyền thông quốc tế về một Việtnam do một đảng cầm quyền độc tài tham nhũng, bóc lột toàn dân, lừa dối đồng bào, khinh rẻ trí thức, đàn áp tôn giáo, khủng bố đối lập, bóp chết tự do, bưng bít thông tin, sập bẫy kiều bào, xuất khẩu nữ nô, bội tín quốc tế, bán nước cho Tầu…Nghĩa là theo đà này, với sự hèn mạt luồn cúi Trungcộng của bọn cầm đầu Việtcộng thì đúng là “đất nước ta đang chuyển mình hội nhập” làm một với Đế Quốc Đại Hán vĩ đại rồi còn gì.

LÝ ĐẠI NGUYÊN



“Meet Việtnam” hay “Gặp gỡ Việtnam” do Tổng Lãnh Sự Việtcông và văn phòng Mậu Dịch Quốc Tế của thành phố San Francisco phối hợp tổ chức tại sảnh đường Tòa Thị Chánh San Francisco vào ngày 15 và 16/11/09, nhằm tuyên truyền cho một nước Việtnam, qua những hình ảnh gọi là “văn hoá” và tiềm năng phát triển dưới thời Cộngsản trị vì. Tuyên bố với báo Tuổi Trẻ hôm 14/11/09, Lê Quốc Hùng tổng lãnh sự Việtcộng ở San Francisco nói: “Chúng tôi muốn thông qua Meet Việtnam đưa những hình ảnh khách quan, trung thực đến với bà con. Chúng tôi muốn chuyển tải đến bà con thông điệp: đất nước ta đang chuyển mình, đang hội nhập và phát triển, mong bà con đồng hành cùng quê hương đất nước góp phần xây dựng quê hương giầu mạnh”.

Trong khi đó, hàng ngày, hàng giờ, người Việtnam ở nước ngoài lại thường xuyên “Meet Việtnam” qua tin tức và hình ảnh từ truyền thông quốc tế về một Việtnam do một đảng cầm quyền độc tài tham nhũng, bóc lột toàn dân, lừa dối đồng bào, khinh rẻ trí thức, đàn áp tôn giáo, khủng bố đối lập, bóp chết tự do, bưng bít thông tin, sập bẫy kiều bào, xuất khẩu nữ nô, bội tín quốc tế, bán nước cho Tầu…Nghĩa là theo đà này, với sự hèn mạt luồn cúi Trungcộng của bọn cầm đầu Việtcộng thì đúng là “đất nước ta đang chuyển mình hội nhập” làm một với Đế Quốc Đại Hán vĩ đại rồi còn gì. Chính vì ý thức được hiểm họa mất nước, mất luôn dân tộc đó, nên đồng bào và thanh niên Việtnam tỵ nạn cộng sản tại California, từ Nam chí Bắc hàng ngàn người kéo về tòa thị chính San Francisco để phản đối và tố cáo trước dư luận quốc tế về trò lừa bịp “Gặp Gỡ Việtnam” của bọn Việtcộng. Khiến cho buổi lễ khai mạc phải rút ngắn mất 3 tiếng đồng hồ.

“Meet Việtnam” tại San Francisco bị chìm lịm dưới “bóng Cờ Vàng” và tiếng hô “Đả đảo Việtcộng bán nước cho Trungcộng” của muôn dân Việt yêu quê hương tại hải ngoại. Còn cái gọi là “Hội Nghị Người Việt Nuớc Ngoài Toàn Thế Giới”, lần đầu tiên, do bộ Ngoại Giao Việtcộng tổ chức tại Hànội từ ngày 21 đến 23/11/09, nhằm thu hút sự trợ giúp của người Việt ở hải ngoại, thì cũng chỉ là hình thức khoa trương, quy tụ những thành phần Việtcộng sinh hoạt ở nước ngoài, những kẻ làm ăn với Việtcộng, bọn theo đóm ăn tàn, đơm đó ngọn tre, cam nhận mình là ‘Việt kiều’. Còn những người Việt tỵ nạn cộng sản là thường trú nhân hay là người Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Úc… gốc Việt, không phải là Việt Kiều trực thuộc quyền quản lý của nhà nước Việtcộng nữa, nên chẳng ai ngu dại cuí mặt tự nhận mình là Việtkiều để cho Việtcộng sai xử.

Những người Việt mang căn cước Tỵ Nạn Cộng Sản có biết nhục không? Khi để cho bọn “vô tổ quốc’ ‘phi dân tộc’ ‘vô văn hoá’ đồng hóa mình vào hàng ngũ Việtkiều rồi nhơn nhơn lên lớp rằng: “Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc trong cộng đồng Người Việt ở hải ngoại. Xây dựng cộng đồng người Việt ở nước ngoài đoàn kết vững mạnh, thành đạt hướng về đất nước. Chuyên gia trí thức kiều bào góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước. Doanh nhân kiều bào đóng góp vào sự nghiệp chấn hưng xứ sở”. Xứ sở Việtnam là của toàn dân ở trong cũng như ngoài nước, mọi người đều có sứ mệnh thiêng liêng là phải góp phần chấn hưng. Nhưng hiện nay dân tộc bị bất hạnh, đất nước gặp tai ương, toàn dân bị bọn Việtcộng độc tài tham nhũng ngu si toàn trị, chúng chỉ nghe lệnh từ đàn anh ngoại bang, không cần biết tới ý dân, biến dân thành bầy nô lệ, coi người Việt ở nước ngoài và trí thức chân chính trong nước là ‘kẻ nội thù’ thì đóng góp xây dựng xứ sở với chúng sao được.

Chúng lớn tiếng khuyên người Việt hải ngoại giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc. Mà lúc nào bọn Việtcộng cũng bắt toàn dân phải trung thành với chủ nghĩa cộng sản ngoại lai phi nhân tính, phi dân tộc, phi văn hóa: Mác-Lê-Hồ. Thường xuyên phát động chiến dịch học tập gương nô lệ ngoại bang và đạo đức dâm loạn của Hồ Chí Minh. Không phải sao? Đảng đã tuyên dương Hồ Chí Minh là cán bộ kiệt xuất của phong trào cộng sản quốc tế. Còn là nhà tư tưởng và có tinh thần dân tộc thì phải xét lại. Ông Hồ chẳng đã tự thú ông không có tư tưởng gì, tư tưởng là của Mao chủ tịch hết. Ngay trước lúc nhắm mắt lià đời. Nếu là người có tinh thần dân tộc thì ông phải nói: Về gặp tổ tiên mới đúng. Đàng này ông viết trong di chúc là: “Đi gặp ông Mác, ông Lê”, các ông tổ cộng sản.

Khi sắp được quốc tế chia phần cai trị Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tuân lệnh Mao Trạch Đông, phóng tay phát động phong trào “Cải Cách Ruộng Đất” đấu tố, tiêu diệt Trí, Phú, Điạ, Hào, thủ tiêu truyền thống tự chủ dân tộc qua việc phá bỏ “Hệ Thống Làng Xã Tự Quản” thay vào đó bằng “Chi Bộ Xã” trực thuộc Hệ Thống Trung Ương Tập Quyền Toàn Trị Cộng Sản. Thế là đảng theo Nga, toàn dân phải tuân lệnh chi bộ để theo Nga. Đảng theo Tầu thì toàn đảng, toàn quân, toàn dân phải theo Tầu. Dân Tộc Việtnam mất quyền tự chủ dân tộc, độc lập quốc gia kể từ đó. Nhất là khi Việtcộng chiếm được Miền Nam thì lập tức chúng vất luôn danh nghĩa “Giải Phóng Dân Tộc” vào giỏ rác để vỗ ngực xưng tên “Chủ Nghĩa Cộng Sản Bách Chiến Bách Thắng”. Chúng gọi chính quyền Miền Nam là “ngụy quyền”. Quân đội là “ngụy quân” bắt đi tù. Dân chúng bị xem là “ngụy dân” bắt đi vùng kinh tế mới. Chúng biến Miền Nam giầu có thành bần hàn, khiến hàng triệu người phải liều chết bỏ nước băng rừng, vượt biển bỏ quê hương đất tổ đi tìm tự do.

Nay người Việt tỵ nạn trên toàn thế giới đã vững mạnh, trở thành một lực lượng đáng nể về “cả chất xanh lẫn chất xám”, hàng năm vì tình thương gia đình, dân tộc đã gời hàng mấy tỷ đô la về trong nước. Đáng sợ cho Việtcộng hơn nữa là khối người Việt tỵ nạn cộng sản luôn luôn là hậu phương lớn cho phong trào tranh đòi Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền của toàn dân. Chính vì thế nên Việtcộng tìm mọi cách để gây chia rẽ, mua chuộc, nịnh bợ, lôi kéo người Việt ở nước ngoài về với chúng. Được vậy là chúng hy vọng nắm quyền lâu dài tại Việtnam. Hãy nghe Trần Đình Thiên vụ trưởng kinh tế Việtcộng nói về hội nghị:“Chủ trương thì nằm trong tinh thần hội nhập chung của chiến lược phát triển của Việtnam, nối kết với người Việt ở nước ngoài.. thông qua bà con để Việtnam kết thông với thế giới…”Có nghĩa là người Việt tỵ nạn phải bỏ rơi dân tộc và toàn dân để làm công cụ cho Việtcộng trên trường quốc tế. Phát biểu trước hội nghị Nguyển Minh Triết chủ tịch nước Việtcộng tuyên bố: “đây là cơ hội, là diễn đàn rộng rãi để lãnh đạo đảng, nhà nước và chính phủ trực tiếp lắng nghe ý kiến đóng góp, xây dựng của kiều bào hải ngoại”. Nhưng nhiều thành viên tham dự hội nghị “chưa thỏa mãn” về vấn đề Biển Đảo, muốn hỏi thêm, lại không có phần trả lời câu hỏi. Đúng là màn trình diễn rẻ tiền huê dạng, mà tốn của, chẳng lừa gạt được người tỉnh thức.


LÝ ĐẠI NGUYÊN
Little Saigon ngày 24/11/2009.




Thật vậy, dân tộc Việt Nam hãy can đảm đứng lên để lật qua những trang sử cộng sản đẫm máu và đau thương. Đã quá trễ rồi. Ngày nào còn cộng sản, thì còn chết chóc, tù đày, tự do, nhân quyền còn bị chà đạp.
Nhà cầm quyền cộng sản, hơn lúc nào hết, luôn buộc người dân lo nghĩ đến chuyện miếng ăn, cái mặc. Cái bụng lúc nào cũng phải cảm thấy còn đoi đói, chưa no. Và người dân thì thiếu thốn nhu yếu phẩm, lo chạy gạo từng bữa. Ðủ hôm nay thì thiếu ngày mai, hay được nồi cơm sáng, thì lại chưa có nồi cơm chiều. Cuộc đời cứ quần quật lo đói rách như thế, thì xin hỏi, còn chi thì giờ mà nhân dân nghĩ đến tranh đấu, hoặc đòi hỏi tự do dân chủ nhân quyền?
Cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh từng dạy: “Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình thì càng ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Còn dân thì ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mà mong đợi trông cậy ở vua ở quan, giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay một người, hay một chính phủ muốn làm sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không kiểm xét, thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường. Anh chị em đồng bào ta đã hiểu thấu các lẽ, thì phải mau mau góp sức lo toan việc nước mới mong có ngày cất đầu lên nổi”.
"The religion of the future will be a cosmic religion. The religion which is based on experience, which refuses dogmatism. If there's any religion that would cope with modern scientific needs it will be Buddhism." Albert Einstein

Tôn giáo trong tương lai sẽ là tôn giáo của vũ trụ. Tôn giáo này dựa trên kinh nghiệm và không chấp nhận chủ nghĩa giáo điều. Nếu có một tôn giáo nào tương thích với khoa học hiện đại, đó chính là Phật Giáo.




Bạn Ơi Hãy Cùng Nhau Đấu Tranh Cho Cuộc Sống Của Mình & Tương Lai Của Con Cháu Mình !!!



Nhân Dân Cần Nhận Diện Bộ Mặt Thật Của Giới Cầm Quyền. Phải Hành Động Cụ Thể Đối Với Bọn Chúng !!!



Chỉ Mặt, Nhận Diện Bọn Cán Bộ Óc Đất, Lũ Công An Lưu Manh, Đám Quan Chức Tham Nhũng, Tay Sai !!!

Công Nhân Bị Đánh Đập Tàn Nhẫn, Dã Man !!!


Followers