20 October 2009

Về nguồn hay về hùa?


Nhìn chung lại, về mặt chính trị theo CS về nguồn sẽ chẳng bao giờ thấy nguồn, thấy quê hương, dân tộc mà chỉ-thấy-và-đi-lại-từ-đầu con đường sầu thảm. Về mặt đạo đức theo CS về nguồn, người đi theo thay vì gặp được nguồn lại bị lạc vào giữa đám gian nhân hiệp đảng. Đám người này chỉ biết ngụp lặn trong tội ác tham ô và bán nước. Như vậy, hội nghị Việt Kiều tháng 11/2009 tại Hà Nội được tuyên truyền là hội nghị về nguồn, nhưng trong thực chất cả về chính trị lẫn đạo đức hội nghi này chỉ có mục đích kêu gọi người Việt hải ngoại hãy theo chân nhà cầm quyền Ba Đình làm những việc buôn dân, bán nước, chống lai đạo đức. Về nguồn là về với quê hương, về với đồng bào. Về hùa là a tòng với tập đoàn gian nhân hiệp đảng có tên gọi là CSVN. Đây đích thực là hội nghị về hùa chứ chẳng là hội nghị về nguồn.

Đỗ Thái Nhiên



Hãy nhìn một chú bé đang thả diều: cánh diều bay lượn trên không là ngọn, đoạn chỉ diều nằm trong tay chú bé là gốc, là nguồn. Về mặt thực tế dòng đời, con người dù cuộc sống buộc phải trôi dạt năm châu bốn biển, nỗi niềm canh cánh bên lòng vẫn là tình đồng bào, nghĩa quê hương. Đó là tâm lý về nguồn. Bên cạnh về nguồn, tiếng Việt có chữ “về hùa”. Về hùa là hợp tác với một người hay một tập thể để làm điều phản đạo đức. Về hùa với bọn trộm cướp, về hùa với phường bán nước, về hùa với đám tham quan…

Tin từ Hà Nội cho biết: “Hội Nghị Việt Kiều Toàn Thế Giới Lần Thứ Nhất” sẽ diễn ra taị Hà Nội từ ngày 19 đến 24/11/2009. Guồng máy truyền thông của CSVN cho rằng hội nghị này được hình thành trên “tinh thần hoà hợp, đại đoàn kết dân tộc cùng hướng về cội nguồn”. Từ đó nhà cầm quyền Hà Nội gọi tắt: hội nghị tháng 11/2009 là hội nghị về nguồn. Câu hỏi được đặt ra là: về nguồn hay về hùa? Muốn trả lời câu hỏi vừa nêu, chúng ta hãy khảo sát hội nghị Việt kiều 2009 trên hai lãnh vực chính trị và đạo đức.

Lãnh vực chính trị: Nói một cách chung nhất chính trị bao gồm tất cả kỹ thuật và nghệ thuật thuyết phục người người hãy hoà hợp với nhau để cùng nhau phục vụ xã hội. Hoà hợp quan trọng hàng đầu chính là sự hoà hợp giữa nhà cầm quyền và quần chúng. Chế độ Hà Nội đã làm những gì để hoà hợp với quần chúng?

Điều kiện tiên quyết của hành động hoà hợp chính là mối giao tình thuận thảo giữa các thành viên trong cuộc hoà hợp. Tình của CSVN đối với người dân chỉ là tình phản: Trước 1975 biết bao bà Mẹ Việt Nam được cán bộ CS tâng bốc lên hàng Mẹ Chiến Sĩ. Ngày nay, Mẹ chiến sĩ đã bị chiến sĩ CS cướp nhà cướp đất, Mẹ chiến sĩ đang cùng với đám dân oan sống vất vưởng trên các hè phố. Năm 1945 CS ngon ngọt mời người Việt yêu nước hãy tham gia chánh phủ liên hiệp. Sau đó chẳng bao lâu, những người Việt yêu nước kia đều bị CS thủ tiêu toàn bộ để Hồ Chí Minh độc quyền cai trị đất nước…Lịch sử CSVN là lịch sử của phản bội. Không phản bội, không phải là CSVN.

Mặt khác, hoà hợp để phục vụ. Vì vậy hoà hợp cần thực hiện theo mô thức hành chánh có tôn ti trật tự nhất định. Và dĩ nhiên, tôn ti trật tự kia phải được diễn ra một cách công bằng. Có như vậy, các bên trong cuộc hoà hợp mới cảm thấy hài lòng. Có như vậy công thức hoà hợp để phục vụ mới đạt kết quả cao. Thông thường, tài năng và đạo đức của một người qui định vị trí hành chánh của người đó. Thế nhưng, CSVN lại lấy tiêu chuẩn đảng viên để thay thế cho tiêu chuẩn tài đức. Một người dầu tài cao, đức trọng, nhưng nếu không là đảng viên, người kia chỉ có thể là công dân hạng hai, hay nói rõ hơn chỉ có thể là tôi tớ của giới đại gia CS.

Còn nữa, theo luận điệu tuyên truyền của CSVN: hoà hợp để về nguồn, để phục vụ quê hương đất nước. Trong thực tế, CSVN cưỡng bách mọi người Việt Nam phải phục vụ đảng CSVN. Làm trái ý đảng tức là tự sát. Đầu tháng năm 2007, tại Hà Nội, Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nước của CSVN, tiếp đón Thiền Sư Nhất Hạnh và phái đoàn Làng Mai. Sau đó, hưởng ứng lời dụ dỗ của CSVN, Thiền sư Nhất Hạnh hướng dẫn hàng trăm tu sinh Làng Mai từ Pháp về nguồn bằng cách xây dựng tại Lâm Đồng tu viện Bát Nhã. Tu viện này tập trung thực hiện hai công tác:

1) Tu học theo pháp môn Làng Mai.

2) Thành lập và điều hành Nhà nuôi dạy trẻ, nhà chăm sóc người cao niên.

Một thời gian ngắn sau ngày “về nguồn”, tu sinh Làng Mai mới khám phá ra rằng CSVN mời Làng Mai về nguồn không phải để tu học và làm viêc từ thiện mà là để kinh tài cho đảng CSVN. Kinh tài trong trường hợp này là tập thể tăng thân Làng Mai Bát Nhã Lâm Đồng phải đi khắp thế giới quyên một số tiền cực lớn để CSVN, bắt chước Trung Quốc, xây dựng tại Việt Nam, một trung tâm Phật Giáo vĩ đại nhằm thu hút đông đảo du khách quốc tế. Trung tâm du lịch này sẽ là con gà khổng lồ đẻ trứng vàng cho CSVN. Dĩ nhiên tăng thân Làng Mai Bát Nhã từ chối thi hành mệnh lệnh của CSVN. Từ đó CSVN trở mặt đàn áp Bát Nhã.

Tóm lại, về mặt chính trị, “về nguồn” theo lời dụ dỗ của CSVN có nghĩa là:

* Chấp nhận làm nạn nhân của một tập đoàn phản bội,

* Chấp nhận làm tay sai cho giai cấp đại gia Hà Nội, mặc dầu chỉ được xem là công dân hạng hai.

* Chấp nhận ngoan ngoãn phục vụ đảng CSVN, nếu không, sẽ đi vào con đường máu và nước mắt mà Bát Nhã đã đi.

Ba cái “chấp nhận” vừa kể dẫn đến nhận định rằng: Chỉ những người không hiểu biết gì về chính trị, những người có bộ óc không bình thường mới có thể quyết định tham dự hội nghị Việt Kiều tháng 11/2009, theo tiếng gọi về nguồn của Hà Nội

Lãnh vực đạo đức: Có ý kiến cho rằng chỉ cần tìm hiểu những người mà bạn thường giao dịch và kết thân, người đời có thể biết được một cách chính xác nhân cách của bạn. Hay nói cách khác: “Đi với Bụt, mặc áo cà sa. Đi với ma mặc áo giấy”. Chế độ Hà Nội là Bụt hay ma? Câu trả lời xin được giãi bày như sau:

Cuối thập niên 1980 hệ thống CS thế giới đã vỡ vụn. Tư tưởng Marx Lenin đã rơi vào thùng rác của các loại suy nghĩ bệnh hoạn. Như vậy, về mặt tư tưởng, đảng CSVN không còn là một chánh đảng đi theo đường lối Marx Lenin nữa. Những điều được CSVN tôn vinh là đạo đức bác Hồ, là “Mênh Mông Tình Dân” (Tác phẩm của Lê Khả Phiêu) chỉ là kiểu tuyên truyền phù phiếm, vô nghĩa. Ngày nay người nào còn chạy theo CS, làm việc với CS, người đó chỉ hành động vì tiền và vì những lôi cuốn của các loại tệ đoan xã hội.

Sau khi tấm bình phong Marx Lenin bị thế lực tự do dân chủ của thế giới đánh tan, CSVN hiện nguyên hình là một tổ chức hoạt động không giấy phép, dùng bạo lực để cưỡng chiếm tài sản của toàn dân. CSVN hiển nhiên là những kẻ gian ác họp lại thành một tổ chức theo kiểu “Gian nhân hiệp đảng”. Với bản chất gian nhân hiệp đảng, CSVN đã phạm vô số tội ác, bài viết này chỉ nêu ra bốn tội ác điển hình:

Tội thành lập tại Việt Nam một chế độ chính trị phi chính thống: Nhằm che đậy bộ mặt “gian nhân hiệp đảng”, CSVN thực hiện hàng loạt bầu cử gian lận với mục đích khoác cho nhà cầm quyền Hà Nội chiếc áo tự do dân chủ. Tuy nhiên cả thế giới vẫn thừa biết tính phi chính thống của triều đình Ba Đình.

Tội tham ô: nhiều lần Hà Nội thú nhận họ hiểu biết rất yếu kém về luật quốc tế nhân quyền và quốc tế kinh tế thương mãi. Duy lãnh vực tham ô, từ nhiều thập niên qua, Hà Nội đứng hàng đầu xã hội quốc tế. PMU18 là vụ tham ô nổi tiếng thế giới.

Tội bán nước: Tin tức quốc nội và quốc tế từ các năm qua đã chứng minh: Hà Nội và Bắc Kinh mật ước với nhau rằng Bắc Kinh bảo vệ ghế lãnh đạo cho CSVN; ngược lại Hà Nội lặng lẽ bán Việt Nam cho Trung Quốc bằng cách cấu kết với Trung Quốc để biến Việt Nam thành một quốc gia tầm gửi, sống bám vào Trung Quốc trên nhiều phương diện khác nhau: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Từ đó Việt Nam sẽ bị “Tàu hóa” triệt để. Đây là một hình thức xâm lăng lặng lẽ nhưng vô cùng hiểm ác.

Tội phát triển tệ đoan xã hội: CSVN thừa biết, tội phi chính thống, tội tham ô, tội bán nước đều là các trọng tội có thể làm cho bạo quyền bị lật đổ. Nhằm tránh né đại hoạ vừa kể CSVN kín đáo phát triển tệ đoan xã hội với hy vọng quần chúng ham mê trác táng, sẽ phần nào giảm đi cường độ chống bạo quyền.

Các trình bày ở trên tuy khái quát nhưng đủ để khẳng định mạnh mẽ rằng chế độ CSVN là chế độ cực kỳ phản đạo đức.

Nhìn chung lại, về mặt chính trị theo CS về nguồn sẽ chẳng bao giờ thấy nguồn, thấy quê hương, dân tộc mà chỉ-thấy-và-đi-lại-từ-đầu con đường sầu thảm. Về mặt đạo đức theo CS về nguồn, người đi theo thay vì gặp được nguồn lại bị lạc vào giữa đám gian nhân hiệp đảng. Đám người này chỉ biết ngụp lặn trong tội ác tham ô và bán nước. Như vậy, hội nghị Việt Kiều tháng 11/2009 tại Hà Nội được tuyên truyền là hội nghị về nguồn, nhưng trong thực chất cả về chính trị lẫn đạo đức hội nghi này chỉ có mục đích kêu gọi người Việt hải ngoại hãy theo chân nhà cầm quyền Ba Đình làm những việc buôn dân, bán nước, chống lai đạo đức. Về nguồn là về với quê hương, về với đồng bào. Về hùa là a tòng với tập đoàn gian nhân hiệp đảng có tên gọi là CSVN. Đây đích thực là hội nghị về hùa chứ chẳng là hội nghị về nguồn.


Đỗ Thái Nhiên


19 October 2009

MÔ PHẬT..Máu Nhuộm Sân Chùa THẬT RỒI.


Vì rằng, tuy Sư ông Nhất Hạnh và ĐLHT Thích Quảng Độ là đồng tôn nhưng bất đồng thuận đôi điều nào đó! Nhưng tăng ni con của Phật đang nằm trong cảnh thập tử nhất sinh. Thì hà cớ chi, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ cùng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, sẽ không chung tay giúp đở trước lời kêu gọi của một vị đồng tôn. Đó là mặt từ tâm trong lãnh vực tôn giáo và tình người. Nhưng, thâm ý cao nghĩa hơn là chuyện chánh sự quốc gia đang bấp bênh trước nạn Hán xâm, cũng như bất cứ tôn giáo nào cũng đều đang bị đàn áp. Tất cả đang chờ một chữ “Duyên-Cớ ” để hội ngộ. Vậy, lời kêu gọi nhân đạo của Sư ông Nhất Hạnh rất tự nhiên thành sự Liên Tôn.

NGUYỄN DUY THÀNH



Từ năm 1963 đến 1975, khi Miền Nam-Việt Nam còn tự do. Người dân Sài Gòn và các tỉnh vùng ven đô thị đều biết cựu Trung úy Cảnh sát quốc gia Nguyễn Ngọc Thanh. Vì ngoài nhiệm vụ bảo quốc an dân thì chính ông là soạn giả Yên Lang, người soạn giả thường trực của đoàn hát Kim Chung, hay một số đoàn hát ở các tỉnh như Thing Thông- Kim Chưởng- Dạ Lý Hương. Có thể nói, sân khấu nghệ thuật cải lương thời đó đã ấn dấu vào lòng người yêu thích bộ môn này những nhạc ảnh khó phai, và những tiếng hát lời ca đó vẫn còn truyền tụng đến ngày nay. Cũng từ độ ấy, bút hiệu dễ cảm: Yên Lang đã gắn liền với khán thính giả Việt Nam qua các tuồng cải lương như: Đêm Lạnh Chùa Hoang, Mùa Thu Trên Bạch Mã Sơn, Áo Vũ Cơ Hàn, Người Phu Khiêng Kiệu Cưới và Nắng Thu Về Ngõ Trúc..vv.. Nhưng có một vở tuồng mãi mãi song hành cùng tháng năm làm người mê cải lương hoài nhớ, đó là vở: Máu Nhuộm Sân Chùa.

Có lẽ! Kịch bản này được phóng tác từ một câu chuyện bên Tàu, bởi tất cả các nhân vật thuộc phe chính hay phái tà đều có tên họ như Dư Phong, Tự Tâm, Thiên Nhai Khách, Chu Thiên Mản..vv..Nhưng dù là chuyện tàu hay ta mà nhìn theo góc độ nghệ thuật và văn hóa, thì Máu Nhuộm Sân Chùa đã khép lại trong tính nhân bản và hữu lý, khiến người xem thương tâm và sẵn lòng vị tha khi nhân vật chính đã lầm lẫn giết chết vị ân sư của mình, sau đó đem lòng hối tiếc và nguyện giã biệt chốn bụi trần đầy ân oán, để tự cảm hóa mình dưới bóng từ bi của cửa Phật.

Nhưng dù bi thương, ai oán hay cảm động đến đâu! Thì Máu Nhuộm Sân Chùa cũng chỉ xảy trên sấu khấu cải lương mà thôi!

Aáy mà nào ngờ ! Những tấn tuồng bi kịch cứ ngỡ rằng chỉ diễn ra trên sân khấu, lại có thể xảy ra trong đời sống con người Việt Nam hiện nay. Máu ở đây không còn là thuốc đỏ do diễn viên bôi đổ lên người, mà máu thật của tăng ni đã đổ xuống, và thật sự máu đã nhuộm sân chùa: Chùa Bát Nhã.

Còn hơn ác mộng, nét thanh tịnh của chốn thiền môn biến mất, tất cả chỉ còn lại sự tan hoang..bàng hoàng .. “ Nam Mô A Di..” Tiếng cầu kinh của tăng ni vang lên có khi đồng thanh, có khi đơn độc vào lúc chánh điện của chùa Bát Nhã phải chịu nhiều đợt tấn công của chính quyền hóa côn đồ, những xâu chuổi hạt niệm kinh bị giật bứt tung rơi vãi khắp khuông viên tu viện. Số phận và đường tu học của gần 400 tăng ni Làng Mai- Bát Nhã cũng như chuổi hạt từ bi đó, tất cả bị xé lẻ, tách rời trước cưỡng quyền ác bá. Những tiếng la thất thanh của tuổi non nớt vang lên: “ Chúng con chỉ muốn đi tu thôi mà, sao lại phá chùa”, hòa xen trong âm thanh rên la cầu cứu của một số sư huynh bị côn đồ đánh đập và nhục mạ vào hạ bộ. Bao đau thương và oan khiên cũng khiến trời cao đổ lệ. Mưa Cao nguyên chưa bao giờ nặng hạt như ngày 27 tháng 9 năm 2009, ngày có nước mắt của Trời trộn chung cùng Phật lệ của tăng ni, mà chắc chắn lịch sử quốc gia sẽ ghi đậm lại một vết dơ của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã đàn áp tôn giáo.

Tuy nhiên, trong căn cốt bản thể của Việt nhân từ cổ chí kim, chưa bao giờ đạo giáo thất bại trước tà quyền, bởi khi niềm tin tôn giáo và nhân phẩm con người bị xúc phạm, thì chính nghĩa sáng ngời của tôn giáo sẽ mãnh liệt và chiến thắng ác nhân.

Cũng từ đau thương vỡ vụn của tăng thân Bát Nhã đã cho người ta thấy một số vấn đề của tôn giáo, quan điểm, chính kiến, đạo lý đã nổi trội lên và tạo ra sự tranh luận lắm hướng nhiều phương. Nhưng bàn luận đến đâu thì ước mong của mọi người cũng đều cầu vọng, là làm sao tìm ra một giải pháp cho gần 400 tăng thân Bát Nhã được bình an và có chổ chở che để tu tập đạo- đời.

Đồng niệm với hảo ý trên. Bài viết này xin đưa ra một số điểm nhỏ nằm ngoài ý kiến mà công luận đã bàn. May đâu! Người trong sự vụ Bát Nhã xét rằng hợp tình hữu lý thì thực thi.

Trước hết, đặt cái nhìn chung về sự đàn áp tôn giáo của giới cầm quyền Hà Nội thì sự vụ Bát Nhã cũng phải hứng chịu như các vụ Thái Hà, Tam Tòa..vv..trước đây.

Nhưng tách riêng để nhìn vụ Bát Nhã theo từng góc cạnh, thì mọi sự rất đúng nghĩa với hai chữ: Thảm Kịch, mà người viết Đại Kịch Bản này là nhà cầm quyền Hà Nội và 2 nhân vật chính của cốt truyện là Sư ông Nhất Hạnh và thầy Đức Nghi.

Ai đúng, ai sai, nhân vật nào hay, dở ..??? Xin công tâm luận bàn.

Một: Nhà cầm quyền Hà Nội:. Đi sâu vào sự kiện Bát Nhã thì Hà Nội đã khéo léo viết kịch bản phần mở đầu là Tôn giáo, nhưng phần trung đoạn và kết thúc là một vụ án lừa đảo hình sự, mà thuật viết lách cho mỗi kịch bản vẫn cùng một chiêu thức là “ lấy độc trị độc” mà hiện thực hóa là dùng Sư đánh Sư. Cho nên sự vụ Bát Nhã bây giờ đang vào hồi “ Sư nói sư phải. Vãi nói vãi hay”, còn Bộ chính trị cộng sản Việt Nam và Ban nghiên cứu tôn giáo trung ương thì khoanh tay và nói: Nam mô a di nhà nước không biết chi hết..từ từ cho nội bộ giải quyết.. Nghĩa là giao cho “ một số đồng chí” trong GHPGVN và địa phương Lâm Đồng. Vì các “ đồng chí” trung ương đang bận lo chuyện: Bán Nước...Hết.. ..Phủi tay.

Hai: Nội Bộ Làng Mai: Xin hãy gác lại mọi nhận xét thuộc tính Nhân Thân của người đứng đầu Làng Mai, để có cái nhìn công tâm trung thực về sự vụ Bát Nhã. Có thể nói, việc Sư ông Nhất Hạnh đưa giáo phái Làng Mai về quê hương để “phổ độ chúng sanh” là một việc tốt. Bởi, dân Việt trải dài hơn 60 năm dưới chế độ vô thần, giờ đây nhìn lại mặt văn hóa và đạo lý tình người thì quả thật quá băng hoại! May thay! Một số tôn giáo đã biết chịu khó nhẫn nhục và cương quyết gìn giữ khuôn khổ, nề nếp. Nhờ đó xã hội và con người còn một chút bản lề sắc thái Việt Nam. Nay, có thêm hình thức tham Thiềng của môn phái Làng Mai, thì ít nhiều cũng đóng góp được một phần mở mang tinh thần văn hóa và đa dạng về tâm linh tín ngưỡng.

Nhưng rất tiếc! Người đứng đầu Làng Mai đã chọn không đúng thời điểm, hay nói đúng hơn là đã nhận định sai tình hình, nhất là mặt quan điểm của chế độ hiện hành, để rồi gởi lại quê hương một thảm kịch mà có lẽ việc thu dọn tàn cuộc sẽ còn lâu mới xong! Bởi, vở tuồng đã hết, khán giả đã ra về nhưng màn nhung chưa khép, sân khấu đang ngỗn ngang kèn trống, dù lộng đỏ hoe và áo choàng giáo chủ vàng khè đang còn đó, nhưng bầu sô thì chạy trốn, tất cả lổ lã tiền mất tật mang, có lời chăng là người môi giới và chàng viết kịch!

Sở dĩ, phải ví von sự vụ Bát Nhã như thế, chắc cũng không sai nhiều lắm! Bởi, nhìn lại từng chi tiết theo trình tự thời gian, thì có thể nói Sư ông Nhất Hạnh là người có thể giải quyết được một phần nào về trách nhiệm, để tránh được cái thảm kịch đưa đến cho tăng sinh đệ tự. Bởi rằng, khác với vụ Tòa Khâm Sứ, Thái Hà, Tam Tòa bị đàn áp trước đây. Nội vụ của Bát Nhã đã được đưa lên hàng thuộc Bộ ngoại giao. Chính đây là điểm mà ngay cả giới cầm quyền Hà Nội hết sức dè dặt, thận trọng trước khi đàn áp, vì người đứng đầu Làng Mai và một số tăng sinh không thuộc Quốc tịch Việt Nam. Bằng chứng cho việc này là ngày 13 tháng 8 năm 2009, Lê Dũng (cựu) phát ngôn nhân Bộ ngoại giao chính thức xác nhận Lệnh trục xuất tăng thân Bát Nhã có công hiệu sau ngày 2 tháng 9 năm 2009. Có thể xét đoán rằng, Sư ông và Ban trị sự Làng Mai hết sức thất vọng và “chính thức” nhận ra mình bị lừa, tuy rằng sự vụ đã lục đục trước đó một năm, nhưng vẫn mong manh nuôi hy vọng để níu kéo qua “ngoại giao bất văn tự”. Nhưng, rà soát thật kỹ để đưa ra lập luận, thì có thể nói rằng sự kiện Bộ ngoại giao Việt Nam chính thức lên tiếng trục xuất thì có lợi cho Làng Mai. Vì, chính thức lên tiếng còn hơn im lặng kéo dài rồi bất ngờ đàn áp như các sự vụ trước đây. Và, nếu ngay vào lúc đó, người đứng đầu Làng Mai chọn giải pháp cứng rắn để lên tiếng đáp trả giới cầm quyền Hà Nội, thì có khi ( may ra) tìm được một cái tạm gọi là (Deal) gì đó để sắp xếp hậu chuyện! Nhưng rất tiếc, phía Sư ông Nhất Hạnh và Ban trị sự Làng Mai đã im lặng quá lâu, mà sự im lặng này đã tạo cho giới cầm quyền Hà Nội “ được nước làm tới luôn”.

Nhưng, một cơ hội khác lại còn lớn hơn nhưng Sư ông Nhất Hạnh vẫn bỏ qua. Đó là 2 lá thư “cầu cứu” của Sư ông gởi cho Nguyễn Minh Triết và Sĩ phu trí thức Việt Nam. Trước hết, xin tôn trọng cách hành xử của một vị cao tăng cũng như phép tắc kính lão đắc thọ, nên không muốn đi sâu vào để phân tích nội dung của 2 lá thư. Nhưng xin được lấy một số quyền căn bản của tự do báo chí, để suy xét và đưa ra 2 lập luận mà tin rằng Sư ông cũng như Ban trị sự Làng Mai có khi cũng đồng ý.

Là Sư ông Nhất Hạnh chọn cách viết thư ngỏ, tức giải pháp “ Mềm”, là vô vọng.. Vì vô vọng nên không tạo ra hiệu lực cao, thực tế đang chứng minh điểm này.


Tại Sao?

Bởi lẽ, chọn giải pháp “Cứng” có thể đúng hơn, phù hợp hơn với tình hình của Bát Nhã lúc đó cũng như hiện nay, và giải pháp cứng rắn này không chỉ đánh động được toàn bộ mọi thành phần trong xã hội Việt Nam, mà có thể làm chấn động cả quốc tế nhìn về Bát Nhã, xa hơn nữa, tiếng thơm của chính Sư ông sẽ vang lừng thế giới, và đặc biệt cục diện đấu tranh của người Việt Nam nói chung, cũng như các tôn giáo nói riêng có thể chuyển qua một hướng khá khả quan, và việc này chỉ duy nhất Sư ông Nhất Hạnh mới có cơ hội làm được, mà ngay cả các vị trong hàng giáo phẩm của các tôn giáo khác muốn làm nhưng cũng không có điều kiện.

Để thấu rõ điểm trên, xin xem lại phần thời gian và địa điểm của Lá thư mà Sư ông Nhất Hạnh viết cho Nguyễn Minh Triết. Thư đề rằng: “ New York ngày 30 tháng 9 năm 2009”, nghĩa là Sư ông đang có mặt tại Thủ đô của Hoa Kỳ.

( Xin được lưu ý một điểm về đặc tính cá biệt trong các lá thư của Sư ông Nhất Hạnh, là hoàn toàn khác với các vị thuộc hàng giáo phẩm, kể cả nguyên thủ của các quốc gia. Vì phần lớn các lá thư đều có một Tiêu đề, mang tính cách một Tiểu phẩm Văn bút. Ví dụ: Thư cho ông chủ tịch có tựa: Luân Thường Đạo Lý, hay thư cho Trí thức Việt Nam thì: Cánh Tay Che Chở, hoặc thư cho môn đệ chủng sinh thì: Thân Kim Cương..vv.vv. Và hình thức trình bày trên lá thư luôn giữ tính Nho gia, không như các bạn trẻ hay một số người lớn tuổi viết theo kiểu “phăng-tắt”. Từ đó, cho thấy lá thư gởi ông chủ tịch không thuộc dạng ủy quyền, hay nói gần hơn là Sư ông đang ở Thủ đô của Mỹ).

Như vậy, đã có sự trùng lặp ngẫu nhiên hay tính toán cho sự vụ Bát Nhã theo giải pháp “Mềm”, trước khi Sư ông Nhất Hạnh động bút đệ thư ???

Vì rằng, đối chiếu theo tin tức thì vào lúc 1 giờ 30 sáng, theo giờ Hà Nội của ngày 24 tháng 9 năm 2009, thì Nguyễn Minh Triết cùng đoàn tùy tùng đến New York để dự khóa họp thứ 64 của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, nghĩa là ông Triết có mặt tại Hoa Thịnh Đốn trước 6 ngày so với lá thư của Sư ông Nhất Hạnh đề ngày 30-9-2009, tức cũng là ngày mà ông Triết vừa rời New York, và vào lúc trưa thì đến Thủ đô Santiago của nước Chi Lê.

Vậy, khoảng cách trong 6 ngày nói trên. Liệu có một cuộc gặp gở không thành giữa người đương quyền và phái bộ Làng Mai không???.

Bởi, xét kỹ mặt tâm lý của nội dung lá thư gởi ông chủ tịch đã có chỉ dấu cho thấy sự thất vọng nào đó, mà sự thất vọng này bắt đầu từ việc không được tiếp kiến ông chủ tịch, hoặc có gặp nhưng mọi đề đạt không được đáp ứng. Rồi từ đó, Sư ông quyết định chính thức lên tiếng theo giải pháp Xin- Cho, sau một thời gian dài im lặng.

Đứng trên lập trường của một vị cao tăng có tên tuổi quốc tế, và đang đứng đầu một giáo phái mà tăng ni được tụ họp bởi nhiều chủng tộc. Nhưng chỉ cách đó mấy ngày thì giáo phái bị đàn áp đẫm máu và đang tuyệt vọng vào giờ thứ 25. Như thế thì còn gì tốt hơn, khi chính bản thân của Sư ông Nhất Hạnh thuê nhờ một hãng Truyền hình của Mỹ tại New York để mở cuộc Họp báo, nhằm đưa vụ việc đàn áp Bát Nhã ra trước công luận quốc tế, đặc biệt trước sự theo dõi của hàng trăm nguyên thủ quốc gia trên toàn thế giới, vì Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đang nhóm họp tại đây. Một điều chắc chắn là sự lên tiếng này sẽ lên tận trời xanh, và mức độ bẽ mặt của Nguyễn Minh Triết cũng như giới cầm quyền Hà Nội phải tính toán sao trước sự kiện bất ngờ này? Bởi trong tay Sư ông Nhất Hạnh có đầy đủ bằng chứng là Video hay hình ảnh về cuộc đàn áp.

Hoặc, ít ra Sư ông Nhất Hạnh có thể nhờ hãng Truyền hình Việt ngữ SBTN- Hoa Thịnh Đốn để gởi một thông điệp nhằm trấn an tăng ni cũng như kêu gọi mọi người. Dù rằng, một số chính khách người Mỹ thiếu thiện cảm với Sư ông Nhất Hạnh, nhưng sau bao nhiêu năm vân du thuyết giảng đó đây, thì tiếng cầu cứu của Sư ông cũng chạnh lòng đến một số vị nguyên thủ của các quốc gia Châu âu. Chính sự lên tiếng này có thể tạo cho giới cầm quyền Hà Nội một sự e dè trong việc đàn áp dưới hình thức côn đồ. Hoặc, biết đâu Làng Mai có được một cái (Deal chính trị), bằng cách Sư ông Nhất Hạnh tự động ngoại giao với chính phủ Pháp quốc, để có thể bảo trợ cho gần 400 tăng thân đang vô gia cư được phép xuất ngoại đi tu học ở Làng Mai bên Pháp. Lập luận mang tính giả định này có thể xảy ra, bởi chính bản thân của Sư ông Nhất Hạnh là hiện thân của lập luận này. Vì năm 1966 Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã không cho Sư ông nhập cảnh trở lại, vì lý do an ninh quốc gia. Vậy thì nội vụ của Bát Nhã hôm nay cũng rơi vào trường hợp này, tuy trên mặt phẳng truyền thông thì Hà Nội viện dẫn đủ lý do để đuổi, nhưng thực chất chỉ là một mối lo sợ trong tương lai xa, khi giáo phái Làng Mai phát triển sâu rộng trong xã hội. Trong khi bộ chính trị đang rối đầu vì sự phản kháng của các tôn giáo, thì tại sao lại “ rước họa” ở một tôn giáo khác nữa! Không tốt gì bằng dưới lý do nhân đạo là cho toàn bộ tăng ni xuất ngoại, vì phía Việt cộng chỉ “ lời to” trong vụ này, còn phía Làng Mai cũng chỉ mất một chút Chì nhưng còn Chài mà đem được cả “ổ lẫn trứng” về Pháp quốc.

Mô Phật! Ao ước chi được như .. “rứa”! Nhưng rất tiếc! Rất tiếc...

Hay, một giả định nữa là cũng trong hình thức viết thư như Sư ông Nhất Hạnh đã làm. Nhưng người nhận không phải là Nguyễn Minh Triết, mà là Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ.


Tại sao?

Vì rằng, tuy Sư ông Nhất Hạnh và ĐLHT Thích Quảng Độ là đồng tôn nhưng bất đồng thuận đôi điều nào đó! Nhưng tăng ni con của Phật đang nằm trong cảnh thập tử nhất sinh. Thì hà cớ chi, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ cùng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, sẽ không chung tay giúp đở trước lời kêu gọi của một vị đồng tôn. Đó là mặt từ tâm trong lãnh vực tôn giáo và tình người. Nhưng, thâm ý cao nghĩa hơn là chuyện chánh sự quốc gia đang bấp bênh trước nạn Hán xâm, cũng như bất cứ tôn giáo nào cũng đều đang bị đàn áp. Tất cả đang chờ một chữ “Duyên-Cớ ” để hội ngộ. Vậy, lời kêu gọi nhân đạo của Sư ông Nhất Hạnh rất tự nhiên thành sự Liên Tôn. Dấu hiệu này đã sáng như hào quang của Phật Tổ mà Sư ông đã thấy, tuy chưa có lời kêu gọi nhưng tăng thân Làng Mai đã được Thượng Tọa Thích Thái Thuận cho trú ngụ, hay Linh Mục Giuse Đinh Hữu Thoại và Linh Mục Vinh Sơn Phạm Trung Thành đã lên tiếng hiệp thông, và chắc chắn các tôn giáo còn lại sẽ cất tiếng đoàn kết để Liên Tôn trước Giáo nạn và Quốc nạn. Từ sự Liên Tôn này sẽ tạo ra một thế Liên Hoàn không chỉ sức mạnh của các tôn giáo giúp bảo vệ nhau, mà còn thu hút mọi thành phần trong xã hội, nhất là thành phần trí thức – dân chủ, và rõ ràng đặt giới cầm quyền Hà Nội trước một thế trận cam go. Đồng thời, không có gì thuận tiện và ý nghĩa hơn là Bát Nhã thuộc Lâm Đồng, một địa điểm mà Trung Cộng đang cố tình độc chiếm. Vậy, từ sự vụ Bát Nhã đang bị đàn áp, thế Liên Tôn sẽ mở ra một cuộc đấu tranh dươi hình thức: Cầu Nguyện Cho Quốc Thái Dân An Và Khai Tâm Cho Lãnh Đạo Sáng Suốt Nhân Từ. Và cũng từ cuộc cầu nguyện này, “ cứ để” mọi việc “ tự diễn biến” và “ chuyển hóa”, rồi xử lý theo hướng tự nhiên. Dù rằng, thành hay bại thì thế Liên Tôn cũng sẽ tạo ra được sự Tiền Lệ, sự cảnh cáo với cộng sản Việt Nam. Là mỗi khi một tôn giáo hay cá nhân bị đàn áp thì thế Liên Hoàn sẽ xuất chiêu. Từ đó, kế hoạch đấu tranh của thời kỳ hậu Liên Tôn sẽ hình thành.

Thử hỏi, Việt cộng còn lấy cớ gì mà đàn áp???..Chết!!! Chỉ chờ bị “Chiếu Tướng”. Tất cả các lập luận mang tính giả định để hình thành giải pháp cho Làng Mai rất thực tế nằm trong tầm tay của Sư ông Nhất Hạnh. Số phận tăng thân Làng Mai bạc hay phước, và hạt giống Bát Nhã mà Sư ông đã gieo trồng sẽ nảy mầm hay tàn lụi trên quê Mẹ? Xem bộ, Phật Tổ đang thử thách Sư ông Nhất Hạnh, hay nói sát nghĩa hơn là dân Việt gọi Sư ông là BỤT hay không? Chính là lúc này. Vâng! Lúc này chưa muộn.

Xin thảm thương van kêu Sư ông, đừng tha thiết tơ vương làm chi cái hương thơm của mấy cốc Trà móc câu, móc họng đã uống lầm với ông Chủ Bịp! Và quên đi giấc mơ giáo chủ nơi cố quốc vì sẽ không thành mộng khi còn đám Cái Bang Việt cộng. Giả thuyết rằng, hôm nay ông Nông là tổng bí thư chịu cho ngài hành đạo, nhưng sang năm ông Cạn lên thay. Một câu hỏi của ban nghiên cứu tôn giáo trung ương đặt ra. Là vì sao năm 1966 Sư ông Nhất Hạnh xuất ngoại và ở lại bên kia!? Chao ôi! Một chấm dấu than dài như cây Nhang, đằng sau thêm một dấu hỏi to như nải Chuối, thì làm sao Sư ông có thể yên thân ở lại quê hương ăn chùm khế ngọt..!

Nhân sinh ở đời mấy ai không phải trải qua cái câu “ Ai nên khôn không dại đôi lần?”. Xin đừng vọng ảo bờ bên kia.. Hãy vì chúng sanh, pháp nạn và quốc gia mà Sư ông đi tới bằng chân. Bởi, biết đâu trên chốn thế nhân này duy chỉ Sư ông là người vượt qua được cái Bóng của chính mình.

“Nam Mô A Di..Bần nhân đây thấp hạ trí sĩ, nghĩ sao thì nói vậy, sai quấy chi chi, xin Sư ông xá tội”.

Thưa bạn đọc. Nếu gởi lời chào tạm biệt đọc giả tại đây, thì chắc chắn có người la ầm lên kịch bản Máu Nhuộm Sân Chùa đang còn dở dang, xin đừng hạ màn. Vì nhân vật thầy Đức Nghi chưa biết kết quả sẽ thế nào?

Chà! Khó quá “ở đời ai hiểu ai..” Lúc đời đang phơi phới mà hai ông Nhạc sĩ Lê Dinh & Minh Kỳ đang ngồi trên phím đàn, lại còn than “Ngày Sau Sẽ Ra Sao”. Thì dễ gì mà đoán được hậu vận của thầy Đức Nghi! Nhưng dù nhà văn, nhà báo nào viết hay đến đâu! Thì kết cục của Máu Nhuộm Sân Chùa này không thể là một đám cưới tươi vui như Phim Aán Độ. Thôi thì, xin Tiểu thuyết hóa đoạn kết bằng một Quẻ bói là:

“ Nghe nói tờ Báo Telegraph sắp bình chọn thầy Đức Nghi vào hạng “ Đệ Nhị Siêu Lừa”, tức là chỉ xếp sau Vua Lừa Bernard Madoff của Mỹ. Bạn đọc yên tâm, thầy Đức Nghi bây giờ mập lắm, vì nói theo kiểu mấy anh Việt kiều về quê hương làm ăn cháy túi là “ Công an đang nuôi cho béo để kiếm X.O”. Sau khi đuổi hết tăng ni Làng Mai ra khỏi chùa, thì Bát Nhã là một cõi giang sơn của thầy. Cái lạ bây giờ của thầy là không nhận đệ tử , vì thầy xuất gia đã lâu nhưng chuyện kinh kệ thì ít mà “kinh nghiệm” thì nhiều. Thầy Đức Nghi cũng hiểu rằng, khó khăn lắm mới “Gài độ” được Sư phụ “Sập bẫy”. Nếu nhận đệ tử thì khác nào “ Nuôi ong tay áo. Mời cáo vô chùa”. Cho nên, thầy rất hiểu cái câu “ Của phù vân có chân nó chạy”, tốt nhất là “ Độc cô hưởng thụ”.

Nhưng rồi, vào dịp Rằm Tháng Bảy sang năm, có khi năm nữa. Để xá tội vong ân cũng như thỏa mãn dư luận đang lên án, và làm “đẹp lòng” Làng Mai. Vậy là ông chủ tịch điện cho công an Lâm Đông đến chùa Bát Nhã để “ hỏi thăm sức khỏe” thầy Đức Nghi. Sau khi nghe công an đọc tên cúng cơm và bị còng tay về tội: Lừa Đảo Tài Sản Việt Kiều. Hai mắt thầy Đức Nghi tối thui mặc dầu trời chiều rất nắng.

Thầy Đức Nghi nhìn lại cơ ngơi Bát Nhã lần cuối, rồi lảo đảo bước đi và lẩm bẩm:

- Sư ông cho mình giữ một giang sơn để tu mà mình không chịu, bây giờ phải đi tù. Thật đúng: Tu Là Cõi Phúc. Tiền Là Nghiệt Oan.


MÁU NHUỘM SÂN CHÙA XIN: HẠ MÀN

NGUYỄN DUY THÀNH


18 October 2009

Đòn Chính trị trong Giải Nobel Hoà Bình


Hoa Kỳ là một siêu cường thiếu tinh tế, có nền văn hoá rất thô thiển và chẳng biết gì về lịch sử... nên trở thành mối bất an vì phản ứng phiêu lưu của một Tổng thống ngang ngược và nông cạn. Đấy là kết luận của Tây Âu. Chìm sâu bên dưới tâm lý đó là ý chí – ý muốn dũng mãnh – thoái thác trách nhiệm, trong và ngoài khuôn khổ của Minh ước NATO. Với Âu Châu này, sự thịnh vượng là mục tiêu tối hậu, nhưng thịnh vượng kiểu Âu Châu vẫn cao cả hơn tinh thần lý tài thực dụng của tư bản Mỹ!

NGUYỄN XUÂN NGHĨA


Xứ Na Uy Đòi Chiếu Bí Hoa Kỳ

Khi Tổng thống Barack Obama được dựng đầu dậy với tin mừng là đã đoạt giải Nobel Hoà bình 2009, có lẽ ông phải suy nghĩ rất nhanh về hậu quả. Phải chăng là quá nhanh nên nói sảng, rằng con gái ông đã báo tin này, và tin mừng đó đến cùng ngày sinh nhật với con chó nuôi trong nhà! Hay là ông tìm ra cách trả lời thâm thúy cho một gói quà khó nuốt tựa khúc xương?


Chủ tịch Thorbjorn Jagland, người chính thức công bố
giài Nobel Hòa Bình 2009 cho TT Obama ngày 9 tháng 10, 2009.
DANIEL SANNUM LAUTEN/AFP/Getty Images)


Khác với các giải Nobel kia, như Y khoa, Vật lý, Hoá học và cả Văn chương hay Kinh tế là do Hàn lâm viện Thụy Điển tuyển chọn, giải Nobel Hoà bình lại do Quốc hội Na Uy tuyển chọn. Người lập giải là ông Alfred Nobel đã quyết định như vậy. Quốc hội Na Uy đề cử một ủy ban năm người để thi hành việc tuyển chọn. Và nhờ Nobel 2009 cho Obama, ủy ban này bỗng nổi danh như cồn. Trước đó, chẳng ai biết năm nhân vật mờ nhạt này là những ai!

Đó là ông chủ tịch Thorbjorn Jagland, người chính thức công bố kết quả vào tuần trước. Ông là Chủ tịch Quốc hội Na Uy (gọi là Storting), nguyên Thủ tướng và Ngoại trưởng, thuộc đảng Lao động bên cánh tả. Các nhân vật còn lại là Kaci Kullman Five, nguyên Dân biểu và Chủ tịch đảng Bảo thủ; là Sissel Marie Ronbeck, nguyên Dân biểu của đảng Dân chủ Xã hội; Inger-Marie Ytterhorn, nguyên Dân biểu và đương kim cố vấn của đảng Tiến bộ theo xu hướng thủ cựu; và Agot Valle, đương kim Dân biểu đồng thời cũng là phát ngôn viên về đối ngoại của đảng Xã hội Thiên tả (Socialist Left Party). Nói vắn tắt là đa số hai phần năm chính khách thiên tả.

Là chính khách, họ lấy quyết định chính trị, dù có còn ở trong Quốc hội Storting hay không. Và quyết định của họ có tính chất tiêu biểu cho chính trường Na Uy. Vì ý muốn của chính ông Alfred Nobel từ cả trăm năm trước, giải Nobel Hoà bình là kết quả của một hành động chính trị và vì vậy, thường gây bất ngờ, hoặc tranh cãi.

Một Tổng thống đương nhiệm của Mỹ được Nobel Hoà bình năm 1906 là Theodore Roosevelt, chính thức là vì ông đã dàn xếp đàm phán Nga Nhật để kết thúc chiến tranh giữa hai nước. Việc dàn xếp ấy của Roosevelt thực ra nhắm vào việc ngăn chặn Nhật Bản không thừa thế lấn lướt tại Á châu Thái bình dương, một quyết định chính trị khiến Nhật Bản bực bội không ít. Hoa Kỳ thời đó còn muốn nhảy vào can thiệp để bênh vực Đế quốc Nga! Chuyện vãn hồi hòa bình Nhật-Nga chỉ là phụ thuộc…

Cũng thế, quyết định trao giải cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ năm 1973 là hành động chính trị, bất chấp sự thể là thành tích của hai người – Hiệp định Paris – dẫn tới việc Việt Nam Cộng Hoà bị bức tử hai năm sau. Giải Nobel Hoà bình cho Yasser Arafat và Yitzhak Rabin cũng thuộc loại bất thường và gây tranh luận về chính trị vì mâu thuẫn giữa Israel và Palestine vẫn chưa được giải quyết… Chúng ta còn nhiều thí dụ khác về một giải thưởng chính trị, như việc trao giải cho Jimmy Carter (2002), cho Chủ tịch Nguyên tử lực cuộc IAEA của Liên hiệp quốc là Mohammed ElBaradei năm 2005, cho nguyên Phó Tổng thống Al Gore năm 2007, là những quyết định có mục tiêu tấn công Tổng thống đương nhiệm của Mỹ khi đó là George W. Bush…

Những chuyện ấy, ai cũng biết và bàn tán trong suốt tuần qua. Nhưng vấn đề không chỉ có vậy.

Khi đặt ra giải thưởng và đề nghị các chính trị gia Na Uy trao giải, có thể là Alfred Nobel cũng lấy một quyết định chính trị – sự thật ấy, ít ai nhìn ra – và lại cho xứ Na Uy nhỏ bé cơ hội tạo ra ảnh hưởng lớn lao hơn thực lực của mình. Vương quốc Na Uy bằng cái dải áo ở miền cực Bắc Âu Châu chỉ vỏn vẹn có năm triệu dân và chẳng có ảnh hưởng gì khả dĩ gọi là chiến lược. Nếu có nằm kẹp giữa Nga và Đức thì xứ này chỉ là phận chư hầu bị cả hai cường quốc chà xát. Nếu ở sát nách Trung Quốc thì cũng hùng mạnh như... nước Lào.

Năm chính khách Na Uy có thẩm quyền chọn người đoạt giải là năm nhân vật hoàn toàn vô danh tiểu tốt, cho đến khi trao giải theo kiểu độc đáo như vừa qua. Nếu họ có chọn Obama thì ta chẳng ngạc nhiên vì đấy là cách quảng cáo hay nhất cho nước Na Uy. Vì giải thưởng mà thiên hạ sẽ chú ý đến xứ này. Và giải Nobel Hoà bình trở thành vật trang trí! Tội nghiệp cho Nobel.

Nhưng, xuyên qua giải thưởng và vượt khỏi khuôn khổ Na Uy, người ta còn có thể nghĩ tới nhận thức chung của các nước Âu Châu về Obama. Là chuyện mình nên tìm hiểu.

Nói về Âu Châu thì Liên bang Nga hay các nước Đông Âu đều không coi cậu bé quàng khăn đỏ Obama này là lãnh tụ đáng kể. Họ không bị “hội chứng Obamê”. Từ hai giác độ khác nhau, Vladimir Putin hay các lãnh tụ Ba Lan, Tiệp và Khắc đã nhiều lần cho thấy như vậy. Kể cả Vaclav Havel hay Lech Waleza là những người hiếu hòa mà quyết liệt đấu tranh cho dân chủ và công khai phàn nàn về sự ngây thơ đầy nguy hiểm của Obama trước đòn phép của Putin tại Trung Âu.

Nhưng ngoài miền Đông ấy, các nước Âu Châu khác ở miền Tây và miền Bắc thì không che giấu cảm tình của họ với tân Tổng thống Mỹ. Các chính khách Na Uy chỉ ngả theo xu hướng đó của Âu Châu. Vì sao lại như vậy? Vì Obama là người được việc cho họ.

Toàn cõi Âu Châu này, từ Đại tây dương vào tới rặng Urals, đã tự chém giết nhau nhiều lần trong thế kỷ 20 và ra khỏi Thế chiến II với sự kiệt quệ nghèo khốn. Kết cuộc là một khu vực rộng lớn đã thành vùng tranh chấp ảnh hưởng giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết. Vận mệnh – trước hết là kinh tế và an ninh Âu Châu – nằm tại Washington và Moscow. Trong khi Đông Âu thu mình dưới đế giày đinh của Liên bang Xô viết thì cả một khu vực Tây Âu đã được tái thiết và phát triển, rồi được bảo vệ suốt thời Chiến tranh lạnh nhờ sức mạnh rất thiếu tế nhị của Hoa Kỳ! Càng khiếp sợ Liên Xô thì càng cần nương tựa vào Mỹ và càng thầm oán trách một nước đồng minh thiếu văn hoá và có lợi thế là được một đại dương rộng lớn bảo vệ...

Thói thường, người ta không thích ân nhân vì ân nghĩa ấy nhắc tới sự yếu kém của mình.

Chưa kể là Hoa Kỳ thường dũng mãnh đối đầu với Liên Xô khiến cả Tây Âu khiếp vía. Lỡ có gì thì mình ưu tiên chết trước. Khẩu hiệu “thà đỏ hơn chết” của dân Đức dưới thời Ronald Reagan cương cường có phản ảnh tâm lý chung của các nước Tây Âu. Chẳng những vậy, nước Mỹ có hùng hổ đối đầu với khối Xô viết ở bất cứ nơi đâu – Cuba hay Việt Nam hay Trung Đông, Phi Châu – Tây Âu cũng sợ bị vạ lây. Sáu chục sư đoàn của Hồng quân Liên Xô ở bên kia biên giới khiến Âu Châu nhìn mọi sự xoay trở của Hoa Kỳ trên thế giới như một án treo lơ lửng ở trên đầu mình.

Ấn tượng ấy đã kéo dài nhiều thập niên cho tới khi Liên Xô tan rã, Chiến tranh lạnh kết thúc, nước Đức được thống nhất và Đông Âu được giải phóng. Các nước Đông Âu thì vui mừng và cảm ơn Hoa Kỳ thời Reagan-Bush (1981-1992) chứ các nước Tây Âu thì thở ra nhẹ nhõm: từ nay khỏi cần nép mình dưới sự bảo bọc của Hoa Kỳ nữa!

Sau Chiến tranh lạnh, từ 1991 trở đi, các nước Âu Châu đã thịnh vượng và hết sợ chết nên ôm ấp một giấc mơ thịnh vượng trong một thế “Tam quốc” – một thế giới đa cực giữa Nga-Mỹ-Âu – trong đó, Âu Châu sẽ xây dựng những định chế thống nhất để trở thành siêu cường đa quốc và có chủ trương riêng về thiên hạ sự. Thời hoàng kim ấy chỉ kéo dài có mười năm – chuyện Liên bang Nam Tư tan rã hay NATO phải nhảy vào Kosovo chỉ là những vấp váp vụn vặt!

Vụ khủng bố 9-11 năm 2001 bỗng đảo lộn tất cả!

Dù có thiện cảm với dân Mỹ, các nước Tâu Âu đều nghĩ rằng George W. Bush phản ứng quá mạnh. Sự thật thì Chính quyền Bush có tham khảo các đồng minh Âu Châu về từng chuyện, kể cả quyết định khai mở chiến dịch Iraq, nhưng Tây Âu hèn nhát chối phăng chuyện đó, và còn chối mạnh để mong là khủng bố sẽ không tấn công vào ruột gan của họ. Sự lật lọng củaNgoại trưởng Pháp Dominique de Villepin trước diễn đàn Liên hiệo quốc hay những quan hệ kinh tế sâu đậm của Đức với cả Iran và Iraq đã không được truyền thông và dư luận Âu Châu nhắc tới. Chỉ một thái độ ngang tàng của tay cao bồi Texas trong tòa Bạch Cung đủ là lý do. Truyền thông thông ngôn của Việt Nam – tức là phiên dịch mà khỏi cần khả năng xét đoán độc lập – cũng suy luận tiếp như vậy!

Hoa Kỳ là một siêu cường thiếu tinh tế, có nền văn hoá rất thô thiển và chẳng biết gì về lịch sử... nên trở thành mối bất an vì phản ứng phiêu lưu của một Tổng thống ngang ngược và nông cạn. Đấy là kết luận của Tây Âu. Chìm sâu bên dưới tâm lý đó là ý chí – ý muốn dũng mãnh – thoái thác trách nhiệm, trong và ngoài khuôn khổ của Minh ước NATO. Với Âu Châu này, sự thịnh vượng là mục tiêu tối hậu, nhưng thịnh vượng kiểu Âu Châu vẫn cao cả hơn tinh thần lý tài thực dụng của tư bản Mỹ!

Trong khi Bush táo bạo muốn đi tiền và nhấn tới, Tây Âu chỉ muốn quay bài bỏ chạy. Nhưng vẫn ngoái cổ về dạy dỗ nước Mỹ về sự khôn ngoan sâu sắc của Âu Châu muôn thuở...

Bây giờ, nước Mỹ đạo có lãnh đạo mới, một nhân vật tinh tế đầy nét văn hoá hùng biện và đã đấm ngực thế thốt là từ nay làm gì cũng sẽ tham khảo ý kiến Âu Châu. Họ bèn bế cậu bé lên bệ để nước Mỹ từ nay sẽ ngoan ngoãn cư xử đầy vẻ tương kính với các đồng minh. Giải Nobel là vòng nguyệt quế tất nhiên, mặc dù Obama mới tuyên thệ nhậm chức có 11 ngày là đã được tuyển vào danh sách 205 nhân vật hay tổ chức có thể được giải. Na Uy và các nước Âu Châu không cần thành tích của quá khứ mà chỉ cần một hy vọng vào tương lai.

Đấy là ý nghĩa của Giải thưởng vừa bị phá sản vì sự lộ liễu quá trắng trợn của một hành động chính trị. Còn lại?

Còn lại, Barack Obama đang sống trong thế kỷ 21 rất lạnh lùng tàn khốc, và phải xử trí với các lực lượng khủng bố tại Afghanistan, chế độ hung đồ tại Iran hay lãnh tụ gian hùng tại Liên bang Nga. Ông phải bảo vệ quyền lợi của nước Mỹ hơn là hư danh do Âu Châu quàng lên cổ mình. Các thành phần đối thủ của Mỹ coi chuyện Nobel Hoà bình là trò vặt. Và rất vui khi thấy Obama nay đã có sợi dây xích lóng lánh trên cổ. Obama có dám tháo sợi dây đó hay không mới là vấn đề đáng theo dõi…[NXN]


NGUYỄN XUÂN NGHĨA


VIỆT NAM: KIÊN ĐỊNH VÀ NGUY CƠ MẤT NƯỚC


Đất nước đang đứng trước họa xâm lăng mà nghĩ là an bình thịnh trị ; Phật giáo đang bị khai thác làm công cụ cho chế độ đương quyền mà nghĩ là nhà nước ủng hộ Phật giáo ; nội bộ giáo hội bị phân hóa để biến tướng mà nghĩ là đang bình chân như vại. Những cái nhìn như vậy cũng tai hại như chính những nguyên nhân tạo nên pháp nạn và quốc nạn hiện nay.

Phạm Trần



Hòa Thượng Thích Quảng Độ: “ Bảy mươi năm tàn phá khốc liệt con người và xã hội của chủ nghĩa Cộng sản tại Liên xô và Đông Âu cũ bi thảm như thế nào, thì sự trạng này cũng kinh khiếp như thế ấy tại Việt Nam.”


Hoa Thịnh Đốn.- Tổ chức Phật giáo đối lập với Nhà nước Cộng sản Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất do Hòa thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo, đã lên tiếng cảnh giác về nguy cơ dân tộc bị suy vong trước hiểm họa xâm lăng của ngoại bang.

Lời báo động này được đưa ra tại Đại hội Khoáng đại kỳ 4 Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ, tổ chức tại chùa Diệu Pháp, thành phố San Gabriel, California trong 3 ngày 9,10 và 11 Tháng 10/2009, cùng thời gian với Hội nghị lần 11 của Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam Khoá X diễn ra tại Hà Nội để bổ sung và phát triển “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” năm 1991.

Tuy nhiên, sau 6 ngày họp từ 05 đến 10/10 (2009), 180 Ủy viên Trung ương vẫn dậm chân tại chỗ, vẫn còn những ý kiến khác nhau như họ đã thể hiện tại kỳ họp 10 từ 29-6 đến 4/7.

Thông báo của Hội nghị 11 viết : “ Trên cơ sở những quan điểm, tư tưởng, định hướng cơ bản của Cương lĩnh năm 1991 và kế thừa những nội dung vẫn còn nguyên giá trị trong Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) đã bổ sung, phát triển nhiều nội dung mới hoặc điều chỉnh, viết lại một số điểm không còn phù hợp; diễn đạt khái quát, chắt lọc chặt chẽ, có hệ thống hợp lý hơn, khắc phục trùng lặp, có độ dài tương đương Cương lĩnh năm 1991.

Qua thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương cơ bản đồng ý với dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển); đồng thời, cho ý kiến cần làm rõ thêm một số nội dung và cách thể hiện về quá trình cách mạng và những bài học kinh nghiệm, bối cảnh tình hình quốc tế, các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta, về chế độ sở hữu, các thành phần kinh tế, phát huy dân chủ và phương hướng, nhiệm vụ cơ bản trên một số lĩnh vực...

Trên một số vấn đề còn có ý kiến khác nhau hoặc cần được làm rõ, Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị nghiên cứu, cân nhắc, trình Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 12. “

Trong Cương lĩnh 1991, viết vào giai đọan các nước Cộng sản đông Âu và Liên bang Xô Viết nối đuôi nhau sụp đổ, đã khẳng định 3 điều then chốt:

Thứ nhất, “ Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.”

Thứ hai, trong lĩnh vực Kinh tế, Cương lĩnh viết loanh quanh: “ Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.”

Thứ ba, về mặt tư tưởng và văn hóa, Cương lĩnh quy định : “ Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.”

Trong cả 3 điều cốt lõi này , dù những người sọan thảo có cố tình lý luận ra sao chăng nữa thì chung cuộc cũng chỉ nói được một điều, đó là tìm mọi cách để duy trì chế độ Cộng sản độc tài ở Việt Nam bằng mọi giá.

Nhưng cũng vì đảng Cộng sản Việt Nam không muốn cho dân được hưởng những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và các quyền tự do với thế giới văn minh ở Thế kỷ 21 nên sau 18 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 23 năm tiến hành công cuộc đổi mới và 10 năm thực hiện chủ trương phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010, Việt Nam vẫn còn là một trong số các nước nghèo nàn và chậm tiến nhất địa cầu !

Ngay so với các dân tộc láng giềng Đông Nam Á, người dân Việt Nam vẫn chưa được hưởng các quyền tự do như nhân dân Cao Miên, điển hình như tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do lập hội, đảng phái chính trị và tự do bầu cử, ứng cử.

Vì vậy mà ngay trong nội bộ đảng, đã có những hòai nghi nổi lên về lý do duy trì chủ nghĩa Cộng sản lỗi thời cũng như vai trò lãnh đạo độc tôn quá lâu của đảng dựa vào quy định phản tiến bộ và phản dân chủ của Cương lĩnh 1991. Sự ràng buộc phản khoa học của Cương lĩnh 1991 còn là nguồn gốc phát sinh ra những xung đột đang lan rộng trong đảng và nhân dân đối với các chủ trương và chính sách kinh tế tự do nửa vời do nhà nước định hướng và kiểm sóat.

Bên cạnh đó, những bất đồng ý kiến ngày một lên cao đang lan nhanh trong xã hội đối với quyết định độc tài của đảng để cho Tầu vào khai thác Bauxite ở Tây Nguyên đe dọa an ninh và kinh tế của Việt Nam. Người dân, nhất là giới Thanh niên còn nổi giận trước thái độ qụy lụy đến nhu nhược của Chính phủ trước hành động ngang ngược, liên tục vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Hải quân Trung Hoa. Chúng đã thường xuyên đe dọa, tấn công, đánh đâp, bắt chuộc tiền và cướp bóc tài sản của Ngư dân Việt Nam đánh cá quanh khu vực Hòang Sa và Trường Sa.

Ngoài ra người dân còn mất tin tưởng vào đảng trong quyết tâm phòng, chống Tham nhũng, Cải tổ hành chính, Xây dựng và chỉnh đốn đảng để làm sạch guồng máy Nhà nước. Quyền làm chủ đất nước của dân ghi trong Hiến pháp cũng đã bị cán bộ, đảng viên lộng hành, chà đạp nên thay vì làm “đầy tớ” nhân dân, họ đã ngồi lên đầu dân để làm ông chủ bất khả xâm phạm !

Vì vậy mà trong Bài diễn văn bế mạc Hội nghị 11, Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư đảng mới lưu ý 180 Ủy viên Trung ương : “ Công tác xây dựng Đảng là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng và có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ ta. Nội dung quan trọng này cần phải được thể hiện rõ trong Báo cáo chính trị. Hội nghị cũng đã thảo luận, cho ý kiến về một số vấn đề cần nghiên cứu bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng nhằm đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ xây dựng Đảng, đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn mới.”

Nhưng những điều Mạnh nói không có gì mới vì đảng đã thực hành Kế họach xây dựng cán bộ đến năm 2020 từ mấy năm rồi mà kết qủa vẫn như nước đổ lá khoai.

Tình trạng rệu rã của cán bộ, đảng viên không còn che đậy được nữa mà đảng thì vẫn muốn Điều lệ Đảng phải : “ Tiếp tục khẳng định những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, thể hiện rõ bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa Đảng với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh”.

HIỂM HỌA TẦU XÂM LĂNG

Nhưng trước hiểm họa xâm lăng lãnh thổ của Trung Hoa ngày một đến gần thì xâm lăng kinh tế đã gây khốn khó cho nền kinh tế của Việt Nam từ mấy năm qua. Đảng và Nhà nước CSVN đã hòan tòan bất lực trước sự xâm nhập như nước vỡ bờ của hàng hóa Tầu nhập lậu, bán rẻ mà phẩm chất lại cao hơn khiến cho hàng hoá của Việt Nam ế ẩm, thua lỗ, không còn cạnh tranh được.

Đó cũng là lý do tại sao Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã kêu gọi đồng bào trong nước hãy can đảm tẩy chay hàng Trung Hoa để bảo vệ chủ quyền kinh tế, trong khi Bộ Chính trị đảng CSVN chỉ dám kêu gọi người dân dùng hàng Việt Nam để tránh động đến lỗ chân lông của Lãnh đạo Bắc Kinh.

Vì vậy, mọi người đã không ngạc nhiên khi nghe Hòa thượng Quảng Độ cảnh báo qua Đạo từ của Ngài gửi tới Đại hội Khoáng đại kỳ 4 Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ : “Độc tài chính trị chỉ phù du một thời, nhưng đạo Giải thoát Giác ngộ là của muôn đời. Trước cảnh tha hóa suy tàn của đạo đức dân tộc ngày nay, Giáo hội cần chuẩn bị nhân sự từ giới xuất trần đến giới tại gia để đảm lãnh đời sống tinh thần cũng như xã hội của dân tộc. Bảy mươi năm tàn phá khốc liệt con người và xã hội của chủ nghĩa Cộng sản tại Liên xô và Đông Âu cũ bi thảm như thế nào, thì sự trạng này cũng kinh khiếp như thế ấy tại Việt Nam. Phật giáo cần chuẩn bị đối diện với một đất nước điêu linh, một xã hội loạn lạc, một dân tộc vong tính trong những năm tháng tới.”

Trong khi đó thì Đức Phó Tăng thống Thích Hộ Giác lại mạnh mẽ báo động trước 300 Phái đòan đại biểu : “ Đất nước đang đứng trước họa xâm lăng mà nghĩ là an bình thịnh trị ; Phật giáo đang bị khai thác làm công cụ cho chế độ đương quyền mà nghĩ là nhà nước ủng hộ Phật giáo ; nội bộ giáo hội bị phân hóa để biến tướng mà nghĩ là đang bình chân như vại. Những cái nhìn như vậy cũng tai hại như chính những nguyên nhân tạo nên pháp nạn và quốc nạn hiện nay”.

Thượng tọa Tổng thư ký Thích Viên Lý, Trưởng Ban Tổ chức Đại hội cũng thẳng thắn nói trước Đại hội : “Việt Nam của chúng ta đang là một tử địa. Dân tộc Việt Nam vẫn sống trong lầm than, độc tài, bất công và bạo lực. Bất công, bạo lực và độc tài là một tội ác. Là một Phật tử, với tâm từ bi, tất nhiên chúng ta không chỉ lên án bạo lực, bất công mà còn nỗ lực hành động để chận đứng mọi bất công và bạo lực.”

Cùng trong một thời gian mà khi đảng Cộng sản Việt Nam bình chân như vại trước kế họach xâm chiếm lãnh thổ của người Tầu Bắc Kinh để chú tâm vào củng cố quyền lực và duy trì chủ nghĩa Cộng sản tại Hội nghị 11 thì các Nhà sư lại báo động công khai về hiểm họa diệt vong của giống nòi.

Có khác chăng là khi những kẻ cầm quyền CSVN chỉ biết củng cố địa vị để hưởng lợi cho bản thân và phe nhóm thì các bậc Tu hành lại hiên ngang lên tiếng hô hào bảo vệ đất nước dù trong tay không có một tấc sắt. -/-


Phạm Trần


15 October 2009

Hịch Diệt Cộng



“Quốc gia hưng vong

Thất phu hữu trách”

Dòng lịch sử truyền lưu chuyển mạch

Năm ngàn năm văn hiến nước nhà

Trải qua bao thời đại ông cha

Đến hôm nay, ngàn sau vẫn thế

Giặc trong, giặc ngoài, bất kể

Ngoại xâm, nội chướng, không màn

Bất cứ ai xâm phạm đến giang san

Bất cứ ai sỉ nhục lên quốc thổ




Hịch Trần Hưng Đạo, phá tan Mông Cổ

Bình Ngô Đại Cáo, đánh đuổi quân Minh

Giặc Bắc, giặc Tây, khiếp đãm uy linh

Nay Cộng Sản vong nhân, nhục quốc Tông quốc Tổ

Những tội ác của Cộng Sản Việt Nam

Mỗi người dân, là một công tố

Những tàn bạo của Cộng Sản Việt Nam

Mỗi người dân, là một nạn nhân

Những hành động của Cộng Sản Việt Nam

Mỗi người dân, là một chứng nhân

Một khi đã vạch trần

Chạy trời không khỏi nắng

Vì cứu nước cứu dân

Phải công khai nói thẳng

Vì sông núi hồn thiêng

Phải dõng dạc đường đường

Từ khi Đảng Cộng Sản Đông Dương

Xuất hiện cho đến nay

Biết bao hệ lụy tai ương

Không phải ngày một ngày hai

Mà đã gần 100 năm, thế kỷ

Hỡi quốc dân

Hỡi đồng bào

Hỡi sông núi

Hỡi hồn thiêng

Hôm nay không diệt nó

Thì đến bao giờ mới diệt

Phảng phất suối vàng

Hồn đau thống thiết

Bàn thờ Tổ Quốc

Vợn khói uy linh

Thế thế tiền nhân

Tiên Tổ vặn mình

Máu máu xương xương

Nào sông nào núi

Tiếng tình tự, buồn buồn, tủi tủi

Tiếng sử xanh, nhói nhói, nghe đau

«Gà nhà, bôi mặt đá nhau»

Nếu không, lẫn lộn vàng – thau dí bùn

Phải nhắc lại, tận tường, rành rẽ

Kẻo mai sau, ta thán hàm oan

Dù cho nước chảy đá mòn

Tiếng thơm tiếng thủm, vẫn còn trơ trơ

Ai là con dân nước Việt

Ai là con cháu Lạc Hồng

Ai mang máu đỏ da vàng

Ai mang tiếng nói Việt Nam

Hãy đồng vọng chắp tay

Hướng về Bàn thờ Tổ Quốc

Hãy kính cẩn nghiêng mình

Khấu đầu lạy tạ Tổ Tiên

Bất luận Bắc Nam Trung

Là người Việt Nam trên khắp mọi miền

Nhất nhất dõng dạc tuyên ngôn

Trước hồn thiêng sông núi:

Tội ác của Cộng Sản Việt Nam

Đã và đang làm, non thế kỷ

Chỉ kê khai những tội ác tày trời

Nước Biển Đông, đem rửa cũng không vơi

Núi Trường Sơn, đem chất cũng không hết

Tội ác rõ hơn ban ngày

Không cần bới lông tìm vết

Tội ác rành rành sự thật

Không cần dẫn dụ chứng minh

Phan Bội Châu, ai bán cho Pháp, lặng thinh

Thời chống Pháp, ai đã giết nhiều thành phần Dân tộc

Bao nhiêu người bị giết, bởi chính sách Cái Cách Ruộng Đất

Bao nhiêu người mục gông, bởi chiến dịch Trăm Hoa Đua Nở

Ai đã hiến Miền Bắc, dâng Cộng Sản quốc tế

Ai xâm chiếm Miền Nam, làm Cộng Sản tay sai

Ai chôn sống dân lành - Tết Mậu Thân - tại Huế

Ai giết hại dân lành – năm 1972

Biến thành Đại Lộ Kinh Hoàng – Mùa Hè Đỏ Lửa

Cái gì, gọi là Mùa Xuân Đại Thắng

Cái gì, gọi là đất nước thống nhất

Cái gì, gọi là đổi tiền, Quân Quản

Cái gì, gọi là đi kinh tế mới

Cái gì, gọi là chính sách cải tạo

Cái gì, gọi là hợp tác xã, quốc doanh

Cái gì, gọi là đổi mới đổi cũ loanh quanh

Tại sao mang cái danh nhà tù cả nước

Tại sao, Đồng Khởi lên rồi tiêu công lý

Tại sao, Cách Mạng xong rồi, mất tự do

Gạo lúa đâu mà phải gặm bo bo

Đất nước giàu mà sao đong húp cháo

Cái cột đèn biết đi

Là gì nói mau, đừng lếu láo

Chữ tỵ nạn dung thân

Là gì nói mau, đừng quanh co

Lão tặc kia, sao dám bảo là «Bác Hồ»

Kẻ hậu lai, sao dám kêu «Cha Già dân tộc»

«Giải phóng Miền Nam», sao nó vơ nó vét

Đầy tớ nhân dân, sao nó thiết nó ngàm

Phục vụ nhân dân, sao tất cả đều là dân oan

«Không có gì quý hơn độc lập, tự do»

Sao dân tộc không có một cái quyền tối thiểu

Hỡi toàn dân Việt Nam

Hỡi con cháu Lạc Hồng

Hướng lên Bàn thờ Tổ Quốc

Khấu đầu lạy tạ Tổ Tiên

Dù ở bất cứ nơi đâu

Trên khắp mọi miền

Hãy đồng vọng tuyên xưng

Muôn người như một

Ai buôn dân bán nước:

Bọn Cộng Sản Việt Nam

Ai để mất Bản Giốc:

Bọn Cộng Sản Việt Nam

Ai để mất Nam Quan:

Bọn Cộng Sản Việt Nam

Ai di dời cột mốc biên giới:

Bọn Cộng Sản Việt Nam

Ai để mất vùng trời vùng biển:

Bọn Cộng Sản Việt Nam

Ai để mất Hoàng Sa, Trường Sa:

Bọn Cộng Sản Việt Nam

Ai bày trò chương trình Bô – Xít:

Bọn Cộng Sản Việt Nam

Tại sao nó làm như thế:

Bởi chính nó là tay sai nô lệ giặc Tàu

Vậy, một ngàn năm Bắc Thuộc là gì, hãy nói cho mau

Bởi, chính nó còn hơn Chiêu Thống, rước voi về giày mả tổ



Hỡi toàn dân Việt Nam

Muôn người như một

Bất luận thành phần

Trong nước, ngoài nước

Dõng dạc đứng lên

Nhất nhất tuyên xưng

Đây là Lời Hịch

Đây là Lệnh Truyền

Đây là Thời Điểm

Xóa sạch Cộng Sản để cứu dân cứu nước

Xóa sạch Cộng Sản để bảo vệ sơn hà

Xóa sạch Cộng Sản để xây dựng thái hòa

Xóa sạch Cộng Sản để thắm tô son sắt

Tội ác Cộng Sản, nó trùm lên cả nước

Tội ác Cộng Sản, nó trùm lên toàn dân

Tộc ác Cộng Sản, nhục cả Tổ cả Tông

Tội ác Cộng Sản, nhục cả sông cả núi

Chứ không riêng gì hơn 80 triệu người trong nước

Chứ không riêng gì gần 5 triệu người ngoài nước

Chứ không riêng gì những nhà dân chủ đấu tranh

Chứ không riêng gì Dân Oan dân oán loanh quanh

Chứ không riêng gì Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo

Chứ không riêng gì Nguyên Thiều, Thái Hà, Tam Tòa, Bát Nhã

Đừng mơ hồ mộng tưởng bóp bóp xoa xoa

Đừng đi đêm to nhỏ, đây là chuyện trong nhà

Dẹp cái màn chính trị sa lông

Dẹp cái màn thời cơ đón gió

Nhà tù cả nước, chật ních không còn chỗ

Nghĩa địa hoang tàn, rũ mục hết cốt xương

Gần một thế kỷ, tan nát hết tư lường

Đừng có ngủ gục, mơ tiếng tình thương hư vọng.



Tháng 10 – 2009

Thấu Tâm Can

thautamcan@yahoo.com



TỔNG THỐNG MỸ BARACK OBAMA VỚI CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”


Dù trên mặt tuyên truyền Việtcộng vẫn lớn giọng chống “diễn biến hòa bình”, nhưng trong thực tế, diễn biến hoà bình đã đánh bại tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong đầu mỗi người, thay đổi luôn nội dung của chế độ từ ‘cộng sản bao cấp’ sang ‘tư bản man rợ’ diễn ra ở Việt cũng như ở Tầu. Đảng viên Việtcộng được quyền tư hữu, kinh doanh, thi nhau tham nhũng, bóc lột dân chúng, chiếm công vi tư, làm giầu bất chính, khiến toàn dân oán giận, thù ghét. Nên phải bám lấy đàn anh Trungcộng để duy trì chính quyền. Nhưng không may cho Việtcộng đã gặp phải thứ quan thầy hống hách tham tàn vô độ. Buộc Việtcộng phải thi hành chủ trương ‘tàm thực’ Việtnam của chúng, làm cho tinh thần Độc Lập Dân Tộc, Chống Ngoại Xâm của quân, cán, chính và của toàn dân trong, ngoài nước bùng lên kết án tay sai và ngọai xâm mãnh liệt.

LÝ ĐẠI NGUYÊN



Sáng sớm thứ Sáu ngày 09/10/2009, tin tổng thống Mỹ, Barack Obama được trao giải Nobel Hòa Bình 2009 làm cho mọi người ngạc nhiên, đến ngay đích thân ông Obama cũng phải thốt lên: “Tôi không nhận thấy mình là xứng đáng đứng trong hàng ngũ của rất nhiều nhân vật có tài chuyển hóa đã được vinh danh bởi giải này”. Giới trí thức và truyền thông, báo chí, khắp thế giới đều lên tiếng bày tỏ quan điểm, cho đây là “một cuộc tấn phong non yểu, trong việc lưạ chọn và chỉ định một vị khôi nguyên”, vì ông Obama mới nhận chức tổng thống Mỹ chỉ được tám tháng tuổi. Mọi việc vừa mới bắt đầu. “Chưa đâu vào đâu cả!”. Ông Fred Greenstein, giáo sư danh dự môn chính trị học tại Đại Học Princeton cho rằng: “Obama sẽ không được thêm một lợi thế chính trị nào khi được giải Nobel Hòa Bình này, và không chắc nó sẽ dẫn tới bất cứ một thay đổi lớn lao nào”. Giáo sư Lichman nói: “Biết đâu giải thưởng này lại trở thành bệnh ‘nhức đầu chính trị’ cho ông Obama”. Tờ London Times: “Quyết định phi lý về Obama tạo nên một sự nhạo báng Giải Nobel Hòa Bình”. Riêng về một số người Việtnam tại Mỹ thì hài hước hóa cho rằng: “Chú bé ‘quàng khăn đỏ’ được ‘ đội mũ xanh’. Thật ngộ nghĩnh! Rõ đẹp mặt!’

Nhưng theo lời phát biểu của Ủy Ban Nobel trong khi loan báo giải thưởng thì: “Obama khi làm tổng thống đã tạo ra không khí mới trong chính trị quốc tế”… “Ông được tặng thưởng vì nỗ lực phi thường, nhằm củng cố ngoại giao quốc tế và hợp tác giữa các dân tộc”… “Đối thoại và thương thuyết được ưa chuộng như công cụ để giải quyết những xung đột quốc tế khó khăn nhất”… “Viễn cảnh một thế giới không có vũ khí hạt nhân đã mạnh mẽ kích thích thương lượng kiểm soát vũ khí và giải pháp”… “Nhờ động thái Obama, Hoakỳ nay đóng vai trò xây dựng hơn để đối phó với các thách thức khí hậu mà thế giới đang đối mặt”. Thông cáo của Ủy Ban Nobel Hòa Bình viết: “Dân chủ và nhân quyền sẽ được củng cố”… “Rất hiếm khi lại có một nhân vật như Obama thu hút chú ý của thế giới và cho người dân hy vọng có tương lai tốt đẹp hơn”… “Ngoại giao của ông được dựa trên quan niệm rằng, những ai lãnh đạo thế giới phải lãnh đạo trên căn bản những giá trị và thái độ mà đa số nhân dân thế giới chia sẻ”. Phóng viên BBC, Paul Reynolds bình luận. “Giải thưởng rõ ràng là bất ngờ và có thể được xem là sự khuyến khích các dự tính hơn là phần thưởng cho thành quả”.

Với thành phần quyết định trao giải của Ủy Ban Nobel Hòa Bình gồm 5 học giả và chính trị gia, trong đó có 4 bà và chỉ 1 ông, do Quốc Hội Na Uy bầu với nhiệm kỳ sáu năm, mà từ nhiều năm nay Quốc Hội Na Uy do đảng Dân Chủ Xã Hội tả khuynh kiểm soát, thì việc họ chọn ông Obama vốn có khuynh hướng xã hội, rồi trói ông vào vai trò sứ giả hòa bình là điều dễ hiểu. Nhưng ở vị thế của một Tổng Thống Siêu Cường đã từng lãnh đạo thế giới thành công trong các giai đoạn thực hiện“chiến lược toàn cầu” như : “Diệt Phát Xít”, “Giải Thực Dân”, “Đánh Cộng Sản”, “Chống Khủng Bố”, đến nay đang vận dụng và sử dụng sức mạnh kinh tế tài chánh siêu việt, phối hợp với sức mạnh kỹ thuật quân sự khổng lồ, thực hiện giai đoạn chiến lược toàn cầu “Diễn Biến Hòa Bình”, uyển chuyển ứng xử để vượt qua những chướng ngại do các thế lực tôn giáo quá khích đang thực hiện cuộc chiến tranh ôm bom tự sát ớ Iraq, ở Afghanistan, ở Pakistan, các chế độ độc tài tham nhũng ở nhiều nước lạc hậu, và nhất là làm cùn nhụt tham vọng bành trướng của Đế Quốc Đại Hán Bắckinh, nhằm hoàn chỉnh “Nền Kinh Tế Thị Trường Toàn Cầu Hoá”, mở ra thời đại Nhân Chủ Nhân Văn với tiến trình “Dân Chủ Hóa Toàn Cầu”, tránh cho Đại Chiến Thế Giới khỏi nổ ra.

Hiện nay, tổng thống Obama đang được thừa hưởng cái gia tài vô giá, đó là một bài học cho các nưóc thù địch của Mỹ, và là cái giá phải trả của các khuynh hướng muốn đối nghịch với Mỹ. Cái mà cả thế giới lên án, nhất là giới thủ cựu Âu châu thù ghét, đó là thái độ cứng cựa, hành động răn đe và đánh phủ đầu, bất cần dư luận của ông tổng thống Cộng Hòa, George W. Bush. Ông Bush đã làm xong sứ mạng của một tổng thống Mỹ phải làm, trong giai đoạn nhất định là biểu dương sức mạnh Hoakỳ, và giới thiệu đợt vũ khí cực kỳ tối tân vượt trội các đối thủ, để cho ông Obama rộng đường bước vào giai đoạn mới là “Diễn Biến Hoà Bình” trên toàn thế giới. Đúng ra nhóm chữ “Diễn Biến Hòa Bình” đã xuất hiện từ khoảng năm 1999, khi tổng thống Bill Clinton quyết định cho Việtnam được hưởng quy chế “Thương Mại Bình Thường Vĩnh Viễn” - PNTR- . Chính vì chủ trương diễn biến hoà bình của Mỹ đi kèm với quy chế PNTR, nên Việtcộng run sợ không dám ký ngay Thương Ước với Mỹ, phải nhường để cho Tầucộng ký trước một năm, thành ra ‘trâu chậm uống nước đục’.

Thế nhưng, cuối cùng Việtcộng vẫn phải mở cửa để cho Mỹ nhập nội Việtnam và “diễn biến hòa bình” cứ đương nhiên triển khai một cách tự nhiên và tự nguyện nơi cán bộ đảng viên Việtcộng, còn toàn dân thì hân hoan được hưởng sái. Dù trên mặt tuyên truyền Việtcộng vẫn lớn giọng chống “diễn biến hòa bình”, nhưng trong thực tế, diễn biến hoà bình đã đánh bại tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong đầu mỗi người, thay đổi luôn nội dung của chế độ từ ‘cộng sản bao cấp’ sang ‘tư bản man rợ’ diễn ra ở Việt cũng như ở Tầu. Đảng viên Việtcộng được quyền tư hữu, kinh doanh, thi nhau tham nhũng, bóc lột dân chúng, chiếm công vi tư, làm giầu bất chính, khiến toàn dân oán giận, thù ghét. Nên phải bám lấy đàn anh Trungcộng để duy trì chính quyền. Nhưng không may cho Việtcộng đã gặp phải thứ quan thầy hống hách tham tàn vô độ. Buộc Việtcộng phải thi hành chủ trương ‘tàm thực’ Việtnam của chúng, làm cho tinh thần Độc Lập Dân Tộc, Chống Ngoại Xâm của quân, cán, chính và của toàn dân trong, ngoài nước bùng lên kết án tay sai và ngọai xâm mãnh liệt. Trong khi đó, Bộ Trưởng Ngoại Giao Mỹ, Hillary Clinton chính thức tuyên bố: “Hoakỳ đã trở lại Á châu”. Đồng thời giới chức Mỹ còn cho biết đại ý rằng, các công ty Mỹ có mặt khai thác ở đâu thì Mỹ có trách nhiệm bảo vệ an ninh ở đó.

Hiện nay Mỹ là nước đầu tư lớn nhất ở Việtnam. Nghĩa là Mỹ bằng các ký kết chính thức đã nhập nội Việtnam, để mặc nhiên thực hiện “Diễn Biến Hòa Bình” trước sự cố gắng vùng vằng của đảng và nhà cầm quyền Việtcộng, có sự hậu thuẫn của Tầucộng. Cuộc chạy đua trong diễn biến hoà bình ở Việtnam hiện nay rất gay gắt và cam go, không kém gì những điểm nóng ở Iraq, Iran, Afghanistan, Pakistan, Bắc Hàn, Miến Điện. Mà người phải đưa ra quyết sách khôn ngoan, chính xác, hữu hiệu nhất trong chiến lược “Diễn Biến Hoà Bình” trên toàn thế giới, không ai khác hơn là Tổng Thống Mỹ. Chỉ non tay một chút, chỉ sai một ly là từ “Diễn Biến Hòa Bình” trở thành “Diễn Biến Chiến Tranh” ngay lập tức. Liệu, tổng thống Mỹ, Barack Obama có đủ tài đức, khôn khéo và có được một bộ tham mưu siêu việt để thực hiện giai đoạn “Diễn Biến Hòa Bình” tinh tế này hay không đây? Chờ xem!


LÝ ĐẠI NGUYÊN
Little Saigon ngày 13/10/2009.


11 October 2009

Thiền Sư Nhất Hạnh là ai?


Năm 2004 Hànội mời TS Nhất Hạnh về nước để tiếp nối việc làm của Hồng Quang hầu chứng minh cho thế giới biết VN có tự do tôn giáo, vừa gây chia rẽ nội bộ Phật giáo ở trong nước và hải ngoại.

Nhận lời mời, ngày 12-01-2005, vừa bước xuống phi trường Nội Bài cùng với 100 đệ tử thiền sinh, Hànội cử một đội ngủ đông đảo tiếp đón sư ông, sư bà, có rắc hoa thơm trên lối đi, có phóng viên đến phỏng vấn và đưa lên mạng liền. Dịp nầy ông được đi giảng thuyết nhiều nơi và tiếp xúc với nhiều người. Tại Thanh Minh Thiền Viện ở Sàigòn, Sư bà Chân Không được cử đến trước để thăm dò, nhưng Hoà Thượng Quảng Độ từ chối. Tại chùa Già Lam,được Trí Quang tiếp trong 40 phút, nội dung chuyện trò được giử kín.


Nguồn Saigòn Echo



Thiền Sư Nhất Hạnh tên thật là Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926 tại làng Minh Hương, quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên- Huế. Bên nội của Thiền Sư gốc Thanh Hoá, phiá ngoại gốc quận Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.

Năm 1942, Nguyễn Xuân Bảo đi tu ở chùa Bảo Quốc, Huế. Sau khi học xong phần Phật giáo cơ bản, được chuyễn qua chùa Từ Đàm rồi sang chùa Từ Hiếu để hoàn tất chương trình Phật học hầu trở thành Đại Đức do Hoà Thượng Thích Nhất Định chủ trì. Sau đó ông theo học bậc trung học tại Huế.

Năm 1956, Thiền Sư vào Sàigòn học tại đại học văn khoa và tốt nghiệp cử nhân năm 1959.

Năm 1961, Ông được chính phủ Ngô Đình Diệm cho xuất ngoại du học tại Princeton University của tiểu bang New Jersey Hoa Kỳ.

Sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ vào ngày 1-11-1963 thì chuyện tranh chấp nội bộ Phật giáo xảy ra giữa khối Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự do Thượng Toạ Thích Tâm Châu lảnh đạo.

Để tạo uy thế cho chính mình, năm 1964, TT Thích Trí Quang đã mời Đại Đức Thích Nhất Hạnh về nước để giúp ông thống nhất Phật giáo và tìm hướng đi cho tương lai.

Khi về nước, ông giảng dạy tại đại học Vạn Hạnh. Tại đây, đại đức đã không dạy cho đàng hoàng nhưng lại vừa giảng bài, vừa đảo mắt liếc tình, phải lòng sinh viên Cao Ngọc Phượng, người tỉnh Bến Tre. Cô sinh viên nầy bèn tâm đầu ý hợp vào chùa tu với thầy. Vì chỉ mới xảy ra lần đầu trong đời, tim đập loạn xạ bởi qúa hồi hộp, cô đã để quên đôi dép Nhật bên ngoài, phải đi vào Chân Không.

Năm 1965, Chân Không tiếp tục thọ giới tiếp hiện với Đại Đức tạo nên một đứa con trai. Từ đó, ông tự gọi mình là Thiền Sư mà không còn là Đại Đức, Thượng Tọa nữa; nhưng mới đây khi về Việt Nam vào năm 2008, tự phong mình là Hoà Thượng, có lộng trướng đưa rước đàng hoàng !

Năm 1968, Cao Ngọc Phượng đi Chân Không sang Pháp thọ giới vĩnh viễn với TS tại làng Mai, toạ lạc ở Meyrac Loubes Bernac, 47120 Duras phiá nam nước Pháp. Ngoài ra, họ còn có ba thiền viện khác là chùa Pháp Vân, chùa Từ Nghiêm và chùa Cam lộ.

Thiền Sư được mọi người biết đến từ năm 1964 khi xuất bản cuốn Phật Giáo Ngày Nay. Tên tuổi của Thầy được giới văn học Miền Nam xếp chung trong nhóm Thiền Vi của các nhân văn trong phong trào Phật Giáo đương thời; nhưng hào quang nầy đã sớm vụt tắt khi ông đã hiện nguyên hình một sư không bình thường trong những bài viết và bài giảng thuyết sau nầy.

Vào đầu năm 1966, Đại Đức Nhất Hạnh được Thượng Tọa Trí Quang phái ra ngoại quốc kêu gọi chấm dứt chiến tranh , lập chính phủ hoà giải hoà hợp mà môi trường hoạt động đầu tiên là nước Pháp. Xin nghe ông nói :" Tôi rời đất nước năm 1966, vào tháng 5. Lúc đó chiến tranh Việt Nam đã đi tới mức khủng khiếp. Tôi nghĩ rằng mình phải ra đi để cất lên tiếng kêu gọi hoà bình. Tôi chỉ muốn đi vài tháng thôi rồi về. Lúc đó trường đại học Cornell ở Ithaca mời tôi qua để giảng một loạt bài về tình hình ở Đông Nam Á. Người đứng ra mời là giáo sư George Kahin, giáo sư chính trị học ở tại trường Cornell. Tôi đi ra để nói rõ là dân VN không muốn đánh nhau nữa, chỉ muốn ngồi xuống thương thuyết với nhau để đi tới một giải pháp hoà bình và các cường quốc trên thế giới đừng dùng VN làm một chổ để để tranh dành ảnh hưởng nữa, đừng sữ dụng ý thức hệ cũng như bom đạn trên đất nước nhỏ bé đó...

Trong qúa trình vận động hoà bình nầy, tôi được báo tin rằng chính quyền Việt Nam không muốn cho tôi về nữa. Vì vậy tôi đã bị lưu đày từ tháng 5 năm 1966 đến bây giờ...

Tôi bị lưu đày vì đã dám cất lên tiếng kêu gọi hoà bình..."

Qua đoạn văn trên, rõ ràng Nhất Hạnh lờ vờ giả dạng kẻ ngây thơ bởi với kiến thức như Thiền Sư, ông đã rõ cuộc chiến nầy phát xuất từ Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế mà Hồ Chí Minh là người thừa hành để xâm lăng miền Nam. Vậy muốn chấm dứt chiến tranh, kêu gọi hoà bình phải yêu cầu kẻ gây chiến Cộng Sản Hànội dừng tay lại. Đằng nầy ông làm ngược lại, kêu gọi người BỊ xâm lăng NGƯNG chống đở kẻ XÂM LĂNG !

Lúc bấy giờ, năm 1966, Pháp là thiên đường của nhóm Tướng Tá lưu vong chính trị của Miền Nam được Tướng Charles de Gaule gom lại để đánh phá VNCH và trợ giúp Hànội để trả thù Hoa Kỳ và chính phủ Ngô Đình Diệm đã đuổi Pháp ra khỏi Miền Nam.

Cuối tháng 5 năm 1966 khi ông đang thuyết trình ở Pháp thì tổ chức Fellowship for Reconciliation và Cornell University ở New York, một tổ chức phản chiến Mỹ, mời qua Hoa Kỳ.

Ngày 1-6-1966, ông tuyên bố một bản tuyên cáo nói lên lập trường 5 điễm của Giáo hội Phật Giáo Ấn Quang gồm: Yêu cầu chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ chức, quân đội Mỹ rút khỏi Miền Nam VN, ngưng oanh tạc Bắc Việt và ngưng các cuộc hành quân ở Miền Nam. Mỹ phải giúp lập chính phủ dân chủ và tái thiết Miền Nam
rập khuông đòi hỏi 5 điễm của Cộng sản Bắc Việt qua cái gọi là Mặt trận giải phóng Miền Nam ( MTGPMN ).

Ngày 2-6-1966 ông được đưa vào trình bày trước Thượng Viện Hoa Kỳ với nội dung tố cáo Mỹ và VNCH đã gây ra thãm họa tại VN, bị nhân dân bản xứ chống đối một cách mạnh mẽ?! Đúng là Thiền Sư nầy vừa ăn cướp vừa la làng !

Đến đây mới thấy bài viết Sleeping with the enemy của đương kim Thượng nghị sĩ James Webb của tiểu bang Virginia qúa chính xác. Ông viết : cũng không hiễu được tại sao lại có những kẽ với trình độ học vấn cao, đa số sinh ra từ gia đình thượng lưu lại có thể gieo rắc những tư tưởng phá hoại làm nhiễm độc bầu không khí của thập niên 1960 và những năm đầu của thập niên 1970. Ngay cã Quốc Hội cũng bị nhiễm con vi khuẫn nầy.

Để trả lời câu hỏi: ...không hiễu được tại sao, thì xin thưa với TNS tiểu bang Virginia rằng vì ông tăng phản Phật, phản Đạo, phản Dân Tộc nầy .

Năm 1967 ông cho xuất bản cuốn Viet Nam, lotus in a sea of fire, a Buddhist proposal for Peace- Việt Nam, hoa sen trong biển lửa, một đề nghị hoà bình của Phật Giáo. Sách nầy đề cập đến cuộc đấu tranh của Phật giáo từ 1963 đến 1966 cũng như những chết chóc, tang thương do quân đội Hoa Kỳ và Miền Nam gây ra ?!

Ông lên án chính phủ Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo và Nguyễn Cao Kỳ độc tài, quân phiệt. Ông cho MTGPMN là do những người Quốc gia lập ra để chống ông Diệm, không phải do từ Hànội, nhưng vì Mỹ đổ quân vào Miền Nam nên họ nghiêng về phía Cộng sản !. Ở phần cuối để lộ sự mâu thuẩn, lắt léo khi ông trích dẫn lời Lê Duẩn tuyên bố trong đại hội đảng kỳ 3 năm 1960: Đảng ta lảnh đạo mặt trận !

Điểm đặc biệt nhất trong cuốn sách nầy ở trang 52 dòng 20,21 và 22 ông viết: In the minds of the Vietnamese people in general, Ho Chi Minh was a national hero who had led their struggle against the French- Trong đầu óc của người dân Việt Nam nói chung, Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc đã lảnh đạo cuộc tranh đấu chống Pháp. Qua câu nầy, nhận thấy ông không dám trực tiêp nói HCM là vị anh hùng mà chỉ mượn từ ngử "người dân" để nói thay cho mình, nhưng ở đầu trang nầy lại chạy một tít lớn đánh máy bằng chữ hoa: HO CHI MINH, A NATIONAL HERO.

Đây là TIỂU XẢO rất thường thấy của NHẤT HẠNH trong các tác phẩm của ông !

Ông có biết đấu tranh dành độc lập theo kiễu cộng sản chỉ có xảy ra ở Việt Nam đã đưa dân tộc nầy đến ngày hôm nay đi về đâu? Tất cả những chết chóc, tang thương, đau khổ tinh thần lẫn vật chất về mọi phương diện, ông phải chịu trách nhiệm trước lịch sử.


Để hợp thức hoá tình trạng phá giới của mình, ông đã đưa ra một phương thức tu tập mới để thanh minh hành động của mình bằng cách ra cuốn Phật Giáo Hiện Đại Hoá xuất bản tại Sàigòn vào tháng 5-1965.

Ngày 11 tháng 9 năm 2001 là ngày mà Hoa Kỳ và cả Thế giới sửng sốt và đau thương vì khủng bố đã dùng phương tiện của chính người Mỹ đánh sập toà tháp đôi tại New York khiến trên 3000 người bị chết thảm, Nhất Hạnh phải là người cầu kinh để chia xẻ niềm đau thương nầy, trái lại, vào ngày thứ ba, 25-9-2001 lúc 7 giờ chiều, ông
đến Riverside Church ở thành phố New York kêu gọi hoà giải với những tên khủng bố, lại còn quảng cáo rùm beng trên tờ New York Times nguyên 2 trang A 5 và A 22 tốn hết 45,000 USD; trong đó có đăng câu trả lời của ông do ký giả Anne A Simpkinson hỏi, ông nói trong vụ Mậu Thân 1968, chỉ có vài tên du kích bắn vu vơ, lập tức Mỹ đem bom tới dội, tàn phá thành phố Bến Tre làm hư hại 300,000 căn nhà. Đây là đoạn văn được đưa lên tờ New York Times số ra ngày 25-9-2001, có cả hình ông ngồi chắp tay như đang cầu nguyện !

Sự thật thì trong vụ Mậu Thân 68, VC đã tấn công Thị xã Trúc Giang của tỉnh Bến Tre vào lúc 3 giờ sáng rạng ngày mồng 3 Tết âm lịch. Chúng đã pháo vào toà Hành Chánh tỉnh và Bản Doanh trung đoàn 10 của sư đoàn 7 bộ binh rất ác liệt nhưng không chiếm được. Đến 10 giờ sáng, 2 tiểu đoàn 3 và 4 của trung đoàn 10 BB chiến đấu dũng cảm trong thị xã và đã đẩy lui được VC ở khu vực Toà Hành Chánh, Bản Doanh Trung đoàn và bệnh viện thị xã. Các khu vực thương mãi, VC vẫn chiếm giử các cao ốc, trừ đài phát thanh. Đến chiều, 2 tiểu đoàn thuộc lử đoàn 2 bộ binh Hoa Kỳ tăng viện. Vào ngày mồng 4 tết, VC bỏ chạy để lại trận địa 300 xác và hơn 100 vũ khí đủ loại. Phía thuờng dân có 90 người chết và 50% nhà cửa bị hư hại. Chợ Thị xã Trúc Giang bị hủy hoại hoàn toàn. Tham dự trận đánh nầy, VC đã huy động 2000 lính chiến đấu gồm 2 tiểu đoàn tân lập 3 và 4, hai đại đội địa phương, nhiều trung đội du kích và dân quân. Thế nhưng Nhất Hạnh đã ăn gian, nói dối với báo chí quốc tế với dụng ý bôi nhọ quân đội Mỹ và quân lực VNCH. Trong khi đó tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế là sinh quán và nơi tu học Phật Pháp của ông, trong vụ Mậu Thân đồng bào của ông đã bị VC chôn sống, bị chém giết dã man, ông không lên án hành động bất nhân nầy cũng như chẳng có một lời phân ưu, chia buồn đến đồng hương của mình !

Trước năm 1975, Nhất Hạnh đã tuyên truyền rầm rộ khích động phản chiến, ngụy hoà Mỹ giúp Hànội thành công. Ngày nay ông kêu gọi hoà hợp để đưa Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vào giáo hội quốc doanh Phật Giáo Việt Nam.

Năm 1981, sau khi thanh toán xong tổ chức Phật giáo Ấn Quang, Hànội một mặt huấn luyện khoảng 5000 công an được phân phối để kiểm soát hầu hết các chùa và các tổ chức Phật giáo trong nước, mặt khác cho phát triển phong trào Phật học và tập thiền. Đã có bốn học viện lớn được dùng để huấn luyện Sư quốc doanh và thiền. Đó là học viện Phật giáo Việt Nam và thiền viện Vạn hạnh ở quận Phú nhuận, thiền viện Trúc Lâm ở thành phố Đàlạt, thiền viện Phật giáo Huế và thiện viện Phật giáo Việt Nam ở chùa Sứ quán tại Hànội.

Trong khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không ngừng lên án Hànội đàn áp Phật giáo và đòi trả tự do cho Đức Tăng Thống Huyền Quang và Hoà Thượng Quảng Độ, thì vào năm 2002, Hồng Quang, người lảnh đạo nhóm Giao Điễm ở hải ngoại được mời về Việt Nam tham dự đại hội Phật giáo quốc doanh toàn quốc lần thứ V được tổ chức tại Hànội vào ngày 4 và 5-12-2002. Trong bài tham luận, ông tuyên bố: Không có nhân quyền nào bằng quyền tự chủ để độc lập, tự cường để tồn tại. Không có tự do nào bằng tự do vượt ra khỏi sức ép của ngoại nhân. Với lập luận nầy, ông gián tiếp cho phong trào đấu tranh tự do tôn giáo của Phật Giáo Ấn Quang và các tổ chức khác ở hải ngoại là sai lầm, chỉ có giáo hội quốc doanh là đi đúng hướng.

Độc lập và tự cường của Hồng Quang là loại độc lập và tự cường của 2 triệu đảng viên Cộng Sản đối kháng lại ý niệm độc lập và tự cường của dân tộc Việt Nam vốn có trên bốn ngàn năm lịch sữ; trong đó, có một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, tám mươi năm giặc Pháp cai trị, vẫn chưa đến nổi qúa thê thảm như dưới chế độ Cộng sản ngày hôm nay. Các chế độ đó chưa đấu tố chết 178,000 người Việt Nam ở Miền Bắc, chưa chôn sống hàng trăm người như vụ Mậu Thân tại Huế, phẫm gíá phụ nử Việt Nam chưa qúa tồi tệ nhục nhả như bây giờ, chưa lấy quốc nạn tham nhủng làm lẽ sống cho đảng mình hưởng sự phè phởn trên thảm trạng nghèo đói của dân tộc và chưa có hàng triệu người Việt Nam bỏ nước ra đi trên những chiếc ghe thuyền mỏng manh, vượt đại dương tìm cái sống trong cái chết !

Mọi người từ lâu đã thừa hiểu nhóm Giao Điễm là cộng sản trá hình, pha lẫn với những Phật tử qúa khích, thiển cận ở hải ngoại mà công tác chính là đánh phá Vatican (vốn luôn đề cao quyền làm người của mọi dân tộc trên Thế giới và bênh vực kẻ bị áp bức trong bất cứ chế độ chính trị nào) , đánh phá Công giáo Việt Nam, gây đố kỵ, chia rẽ giửa Phật giáo và Thiên Chúa giáo, lôi kéo khối Ấn Quang sáp nhập vào Phật giáo quốc doanh. Mục đích tối hậu của họ là tạo thành trì bảo vệ chế độ.

Năm 2004 Hànội mời TS Nhất Hạnh về nước để tiếp nối việc làm của Hồng Quang hầu chứng minh cho thế giới biết VN có tự do tôn giáo, vừa gây chia rẽ nội bộ Phật giáo ở trong nước và hải ngoại.

Nhận lời mời, ngày 12-01-2005, vừa bước xuống phi trường Nội Bài cùng với 100 đệ tử thiền sinh, Hànội cử một đội ngủ đông đảo tiếp đón sư ông, sư bà, có rắc hoa thơm trên lối đi, có phóng viên đến phỏng vấn và đưa lên mạng liền. Dịp nầy ông được đi giảng thuyết nhiều nơi và tiếp xúc với nhiều người. Tại Thanh Minh Thiền Viện ở Sàigòn, Sư bà Chân Không được cử đến trước để thăm dò, nhưng Hoà Thượng Quảng Độ từ chối. Tại chùa Già Lam,được Trí Quang tiếp trong 40 phút, nội dung chuyện trò được giử kín.

Ông đã lưu lại VN trong 3 tháng để thuyết pháp và tổ chức trai đàn( cầu nguyện cho những vong linh đã nằm xuống trong cuộc chiến) nhưng bên trong ông đã nhận sứ mệnh vận động nhóm Phật giáo Ấn quang gia nhập vào Phật giáo quốc doanh của Hànội.

Dịp nầy, Ông cũng đã hướng dẫn 100 thiền sinh lên Lâm Đồng được Thầy Đức Nghi- Phật giáo quốc doanh- đón tiếp long trọng.

Thầy cao hứng tuyên bố: Rất tâm đắc với những tác phẫm của TS Nhất Hạnh. Thầy muốn khôi phục lại trường thanh niên phụng sự xã hội do TS thành lập vào năm 1964 trước đây. Pháp môn làng Mai thích hợp với đồng bào Việt Nam và Thiền sư là người yêu nước, có lòng tôn vinh đạo pháp và dân tộc ! Vì thế, thầy cúng dường tu viện Bát Nhã cho Thiền Sư ! Qúa đả !!!

Tháng 1 năm 2006 tại làng Mai ở Pháp, thầy Đức Nghi được Thiền Sư truyền đăng đắc pháp, trở thành thọ giáo làng Mai và là đệ tử ruột của Sư Ông Nhất Hạnh.

Đầu tháng 5-2007, Thiền Sư được Chủ Tịch nước Nguyễn Minh Triết tiếp tại phủ Chủ tịch ở Hànội.

Ngày 7-7-2007, Ban Tôn Giáo chính phủ cho phép các tu sinh tu viện Bát Nhã được tu học theo pháp môn làng Mai.

Tại đây có 250 tăng ni và 100 tập sinh xuất gia tu học và sinh hoạt thường xuyên gồm có các lớp tu học hàng tháng, hàng năm.

Ngày 18-6-2008, Thiền Sư lại lên tu viện Bát Nhã nói chuyện với các đệ tử

với đề tài: Thầy căn dặn. Sau đó thầy Đức Nghi cắt đầu, cắt đuôi chỉ còn lại trong 5 phút và cho là Thiền Sư đã coi thường nhà cầm quyền và giáo hội Phật Giáo địa phương, vi phạm quy chế giáo hội Phật giáo Việt Nam (quốc doanh).

Ngày 29-10-2008, ông Nguyễn Thế Doanh, trưởng ban tôn giáo chính phủ đã tố cáo: Ba lần về VN, tăng thân làng Mai từ Pháp đã tấn phong giáo phẫm mà không thông qua GHPGVN, đề cập sai lệch vấn đề chính trị trong nước, đưa lên mạng một số tin tức sai sự thật tại VN, vi phạm luật pháp VN.

Ngày 13-11-2008, công an Lâm Đồng cưởng bách trục xuất 400 đệ tử xuất gia tu học theo môn pháp làng Mai ra khỏi tu viện Bát Nhã bao gồm cả tu sĩ ngoại kiều và 40 ni cô tại Huế.

Sợ dư luận trong và ngoài nước lên án, ngày 19-11-2008, một hội nghị Phật giáo quốc doanh bất thường được tổ chức tại Sàigòn có sự hiện diện của ông Bùi Hữu Dược, vụ trưởng vụ PG từ Hànội vào, một đại diện PG trung ương và một đại diện PG Lâm Đồng, đã đưa ra quyết định như sau: Mọi người có thể tiếp tục tu học. Tăng thân làng Mai ai chưa có đầy đủ giấy tờ, cần bổ túc. Ai quậy phá sẽ xử lý. Về tài sản hai bên làng Mai và Bát Nhã tự giải quyết hay nhờ pháp luật can thiệp.

Ngày 27, 28 và 29 tháng 6 năm 2009, độ 200 thanh niên thuộc xã hội đen kéo đến thiền viện Bát Nhã đập phá nhà bếp và vất nồi, niêu, soong, chảo, gối ngồi thiền, mền chiếu, sách kinh ra bên ngoài . Điện, nước và điện thoại đều bị cúp.

Thiền Sư Nhất Hạnh, một con người dùng tâm địa và miệng lưởi của mình để tuyên truyền cho cộng sản ở hải ngoại hầu giựt sập chế độ VNCH, gây tang thương, đau khổ cho dân tộc VN đến ngày hôm nay. Sau năm 1975, ông chưa dừng tay lại, vẫn còn tìm cách triệt hạ GHPGVNTN bằng cách vận động cho giáo hội nầy sáp nhập vào giáo hội Phật Giáo quốc doanh.

Với một con người mặc áo cà sa nhưng đã phạm qúa nhiều tội lổi với dân tộc VN, với Đức Phật, với Đạo Pháp. Tội phản Phật, phản Đạo, phản Đời, phản Dân tộc rất khó rữa sạch. Một Jane Fonda phản chiến sang Hànội kết tình đồng chí và hổ trợ tuyên truyền cho cộng sản Bắc việt trong chiến tranh Việt Nam, cô không ăn chay, không tụng kinh ngày nào, nhưng nay đã tỏ ra hối hận vì hành động khờ dại trước đây của mình. Còn Thiền Sư chưa thấy có chuyển biến rỏ rệt.

Để chuộc lại lỗi lầm tày trời trước đây trong lúc gần đất xa trời, thiết tưởng Thiền Sư cần phải đi vận động các tổ chức nhân quyền, các nhà lập pháp, các tổ chức phi chính phủ trên thế giới đòi hỏi cộng sản Hànội hảy trả quyền tự quyết dân tộc lại cho nhân dân Việt Nam và phải làm ngay tức khắc bây giờ kẻo đã qúa muộn !. Đó là luật công bằng phải trả và phải thực hiện.

Nếu coi thường luật nhân qủa và thuyết luân hồi của triết lý Nhà Phật thì sợ rằng kiếp sau sẽ không còn được ở dưới mái nhà, dù chỉ là túp lều mái tranh, vách đất đơn sơ nơi thôn dã; chừng đó, coi kỳ lắm, thưa Thiền Sư !

Giống như Thiền Sư, hai ông Phan Khắc Từ và Nguyễn Ngọc Lan quậy nát Sàigòn trước năm 1975.

Ông Lan ra tờ Đối Diện đả kích chính quyền. Mỗi lần xuống đường biểu tình, ông mặc áo dòng đen có băng vải trắng, choàng qua vai, xuống ngực đề dòng chữ: Cấm bịt miệng dân. Đi bên cạnh ông là nử phóng viên trẻ, môi đầy son phấn; khi thấy Cảnh Sát đến, cô nầy dẫn ông vào đường hẽm, mất dạng.

Ông Phan Khắc Từ ở tại họ đạo Vườn Xoài. Ông tình nguyện làm phu hốt rác của Sở Vệ Sinh Đô Thành để có môi trường quậy. Ông thường tham gia chống đối chính quyền, đòi dân sinh, dân chủ !

Sau năm 1975, hai ông đều ra ứng cử dân biểu quốc hội khoá I và đắc cử. Cả hai cũng đều phá giới, nhưng ông Lan có xin phép Cha Giám Tỉnh Dòng (dòng Chúa Cứu Thế), còn ông Từ âm thầm xé rào !

Sau nầy ông Lan biết hối hận, ủng hộ phong trào đấu tranh trong nước. Vào dịp đám tang ông Nguyễn Văn Trấn (một cán bộ CS giác ngộ), ông đã chở Linh Mục Chân Tín đến nơi tang lễ, nhưng đã bị hai người đi xe đạp đạp vào xe Honda khiến ông bị té, đầu đập xuống lòng đường. Từ đó, ông sống âm thầm cho đến khi mản phần, cách đây vài năm.

Riêng ông Phan Khắc Từ, Vi Xi tặng ông một khách sạn. Hiện nay ông có nhiều quyền lực trong công giáo quốc doanh mà người ta thường gọi đùa tại Sàigòn hiện nay có hai Tòa Tổng Giám Mục, toà kia là toà tổng giám mục Vườn Xoài !

Trước mặt Thiên Chúa Toàn Năng, ông là một giáo gian bán Chúa, phản Đạo, phản Đời.


Bài Học cho Thiền Sư Nhất Hạnh

Bắt đầu từ thứ Bảy, 27 tháng Sáu, và kéo dài đến khuya 28, rạng sáng 29 tháng Sáu, nhân chứng nói rằng thanh niên xã hội đen, có khi lên đến 200 người, kéo vào đập phá và đòi đuổi khoảng 400 tăng sinh đang tu tập theo pháp môn Làng Mai tại tu viện Bát Nhã, xã Dambri, thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.

Họ quăng hết đồ đạc của người xuất gia ra khỏi khu nhà “Tâm Ban Đầu.” Họ phá cả bếp nấu ăn của các thầy. Đồ ăn đang nấu sẵn thì họ quăng ra ngoài. Cả soong, nồi, chảo, gối ngồi thiền, quần áo.

Một người tại đây nói rằng các tăng sinh và cả giáo thọ đang lâm vào “ngõ cụt.”

“Sự việc bắt đầu vào khoảng 10 giờ sáng. Hơn 200 người phía bên kia, kéo vào.

Thái độ của họ rất hung hăng, họ đòi đập phá và đuổi các thầy ra khỏi chùa. Họ lấy lý do chúng tôi là người nước ngoài, nhưng thật ra tất cả tu sĩ ở đây đều là người Việt Nam, đến tu học theo lời kêu gọi của Thượng Tọa Đức Nghi.

Chúng tôi về đây tu tập theo Pháp Môn Làng Mai. Đến hôm nay thì chúng tôi gặp khó khăn và họ muốn đuổi chúng tôi. Họ đến rất đông, có cả thanh niên xã hội đen.

Họ quăng hết đồ đạc của người xuất gia ra khỏi khu nhà “Tâm Ban Đầu.” Họ phá cả bếp nấu ăn của các thầy. Đồ ăn đang nấu sẵn thì họ quăng ra ngoài.

Đến trưa ngày thứ Hai, 29 tháng Sáu, thì người tu tập tại tu viện Bát Nhã lâm vào “tuyệt lộ:” không điện, không nước, không điện thoại, đặc biệt nước uống bắt đầu cạn dần trong khi các tiếp tế của Phật Tử địa phương thì bị ngăn cản.

Tin tức chính thức từ Bát Nhã Tu Viện gửi đi lên liên mạng toàn cầu kêu gọi:

Xin tất cả đại chúng khắp nơi cùng hỗ trợ năng lượng chánh niệm xua tan màn vô minh đen tối đang trùm khắp tu viện Bát Nhã. Chúng tôi những Phật tử trẻ không khỏi bàng hoàng khi hay tin hơn 400 quý thầy, quý sư cô đang bị cô lập hoàn toàn trong tu viện bởi một nhóm người lộng hành được bao che bởi một thế lực bên ngoài. Họ vô tâm đàn áp, quăng ném tất cả giường, chiếu, mùng mền, kinh sách.. ra sân, tịch thu tất cả thực phẩm, cắt toàn bộ điện, nước, đập phá máy phát điện, cắt đường dây điện thoại, internet, khóa tất cả cửa không cho ra ngoài...

Trong ba ngày qua, từ chủ nhật 28/6 đến hôm nay thứ ba 30/6, quý thầy quý sư cô phải sống trong cảnh không đèn, không nước, lương thực, thức uống cạn kiệt. Mọi sự hỗ trợ từ bên ngoài đều vô vọng bởi vì con đường độc đạo từ Bảo Lộc dẫn vào Bát Nhã đều có những thanh niên chặn xe, kiểm tra...Một số vị tăng ni, Phật tử, phụ huynh các thầy, sư cô trẻ vì nóng lòng lên Bát Nhã tiếp lương thực đều bị tấn công từ một nhóm khoảng 50 đến 200 thanh niên, phụ nữ ném đá, ném phân bò, gậy gộc vào xe...Họ thẳng tay đánh đập nếu vẫn ngoan cố vào tu viện, thực phẩm chưa kịp trao cho tu viện đã bị họ xé, quăng ném. Họ canh giữ ngày đêm xung quanh tu viện không cho bất cứ người nào được ra hay vào. Với những gì xảy ra hôm nay, chúng tôi thật sự quá đau lòng, chỉ cầu mong sự gia trì của chư Phật, chư Bồ Tát, chư vị Tổ sư và tất cả sự đồng tình ủng hộ khắp nơi đến với tăng thân Bát Nhã trong cơn nguy kịch này.

Quý thầy, quý sư cô tại tu viện Bát Nhã đều là những vị có tuổi đời còn rất trẻ, đang mang trong người một trái tim phụng sự vì đạo Pháp, vì chúng sanh, vì dân tộc.

Qúy thầy, quý sư cô đã bỏ tất cả những xa hoa, cắt dứt mọi sợi dây ràng buộc chỉ với một mục đích giải thoát cho bản thân và cho mọi người. Hôm nay trong tình thế nguy cấp như thế này nhưng tăng thân Bát Nhã không dùng bạo động để chống trả bạo động. Tất cả đều ngồi yên trong Định tạo ra một năng lượng tình thương. Năng lượng tình thương này sẽ chuyển hóa được hận thù của những người có ác tâm. Mong muốn lòng từ bi dần thấm vào tâm của họ.

Chúng tôi, những Phật tử trẻ mong sự ủng hộ của tất cả mọi người trên thế giới lên tiếng nói chung để giúp đỡ tăng thân Bát Nhã qua cơn nguy biến này. Xin đồng cầu nguyện để tạo nên một năng lượng tình thương chuyển hóa mọi bạo động.

Một sư cô biết rất rõ quá trình thành lập tu viện Bát Nhã, hiện đang ở Huế, nói rằng văn thư mới nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ban hành có thể xem là dấu chấm hết cho sự hiện diện của tăng sinh theo pháp môn Làng Mai tại tu viện Bát Nhã.

Sư cô Thoại Nghiêm cho biết: “Trong văn thư mới nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam do thầy Thiện Nhân ký cũng có thể xem là lời khai tử sự hiện diện của mình ở đó. Nội dung có phần: các vị đã đăng ký thì cho ở tu học, chờ thời gian di chuyển đến chỗ mới. Các vị chưa đăng ký nhưng tu học đàng hoàng thì cũng tạo điều kiện tu học, chờ thời gian di chuyển đến chỗ mới.

Vậy là rõ ràng thầy Đức Nghi không cho mình ở đó nữa. Nhưng chờ thời gian di chuyển đến chỗ mới, thì chỗ mới là chỗ nào, thời gian nào thì di chuyển, không ai giải quyết. Cũng xin thưa rất rõ, mình đã đầu tư tất cả niềm tin, tiền bạc vào đó rồi bây giờ lấy đâu ra chỗ khác?”

Tu viện Bát Nhã được xây dựng theo ý tưởng của thiền sư Nhất Hạnh. Theo đó, ông kêu gọi những ai muốn tu tập theo pháp môn Làng Mai tại Việt Nam thì xây dựng cơ sở vật chất, và phía Làng Mai sẽ cung cấp giáo thọ để giảng dạy.

Tu viện Bát Nhã là cơ sở đầu tiên ra đời theo ý tưởng này. Thầy Pháp Hội nói rằng “Thượng tọa Đức Nghi là người đầu tiên phát tâm cúng dường cơ sở có sẵn để phát triển thêm. Giờ đây đã phát triển rất nhiều lần, nhưng nay thì Thượng Tọa Đức Nghi đổi ý, muốn đuổi tất cả tu sĩ nước ngoài.”

Ngoài những vấn đề rất rắc rối xung quanh yếu tố pháp lý liên quan đến cơ sở vật chất, chủ sở hữu quyền sử dụng đất đai trên đó xây dựng tu viện Bát Nhã, tiền bạc được đầu tư để xây dựng tu viện, vân vân, thì có ý kiến cho rằng tư thế của Làng Mai có thể là nguyên nhân sâu xa của vấn đề.

Đây quả là bài học quý giá cho các tôn giáo,những ai chủ trương mang " Chúa Phật" ra thỏa hiệp với bọn quỷ đỏ. Một chân lý bất biến muôn thuở là thiện và ác không " đội trời chung " !


Nguồn Saigòn Echo


Từ Bauxite Đến Bát Nhã


người Việt hải ngoại và quốc nội cần nên cảnh giác và thận trọng trong mục tiêu tranh đấu ngõ hầu nhận thức rõ đâu là Diện và đâu là Điểm như sự việc dựng chuyện khai thác quặng mỏ bauxite, nhưng thực sự là khai thác quặng mỏ uranium. Và việc đàn áp tu sinh Bát Nhã chính là để che đậy hành động bán nước của những ngườ cầm quyền hiện tại.

Mai Thanh Truyết


Kể từ đầu năm 2009, câu chuyện Bauxite bắt đầu nở rộ từ trong nước và ra hải ngoại. Dự án khai thác quặng bauxite do chính Thủ tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng ký sắc lịnh số 167 ngày 1/11/2007 và đã bắt đầu khởi cơng từ đầu năm 2008 ở cơng trường Bảo Lâm (Bảo Lộc) và giữa năm 2008 ở cơng trường Nhân Cơ, Đắknơng, nhưng chỉ chính thức cơng bố vào đầu năm 2009 mà thơi. Mặc dù cĩ biết bao gĩp ý từ những nhà chuyên mơn trong nước và hải ngoại, cùng kinh nghiệm của những quốc gia đang khai thác như Liên bang Nga, Nam Mỹ, Phi Châu, Trung Cộng và Úc Châu. Từ đĩ đến nay, người Việt tại hải ngoại gĩp ý nhiều bài viết trên báo chí, trên mạng lưới tồn cầu cũng như trên đủ loại truyền thơng khác như paltalk, truyền hình, truyền thanh của những nhà chuyên mơn, ký giả và những người cịn lưu tâm đến Đất và Nước Việt Nam về vấn đề trên.

Hiện nay, tại Tân Rai và Nhân Cơ, cĩ hai hình ảnh nổi bật nhứt là hai dãy nhà cao từng sừng sửng trên bầu trời, cao nhứt ở hai vùng nầy. Đĩ là hai tịa nhà “Bạch cung” Chinalco, một ở Nhân Cơ, tổng hành dinh của địa điểm khai thác và 5 địa điểm khai thác khác, chiếm diện tích 1.800 Km2, 1/3 diện tích của tỉnh ĐắkNơng. Dãy nhà thứ hai ở Tân Rai, thuộc xả Lộc Thắng, Lâm Đồng chiếm diện tích khai thác là 2.297 Km2.

Kết luận của người viết là Trung Cộng, qua sự đồng thuận của đảng CS Việt Nam, đã sử dụng hai vùng khai thác bauxite nầy chỉ là Diện và Điểm là một âm mưu của TC nhắm tới là chính thức và hợp thức hĩa sự hiện diện của cơng nhân, chuyên viên, và thậm chí những người quân nhân tình báo chiến lược để chiếm đĩng và khai thác tất cả lợi điểm của vùng Cao nguyên Trung phần Việt Nam từ kinh tế, chính trị, quân sự, và khống sản ở nơi nầy.

Câu chuyện Bauxite đã được chúng tơi khơi nguồn gần một năm nay, và quan điểm dứt khốt của chúng tơi là hình thái khai thác trên chỉ là một cuộc xâm lăng khơng tiếng súng của TC.

Cĩ thể nĩi, tất cả gĩp ý về việc khai thác quặng mõ bauxite ở vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam là một việc làm hồn tồn khơng ứng hợp với việc bảo vệ mơi trường cùng hiệu quả kinh tế của việc khai thác, cũng như ảnh hưởng đến đời sống người dân, đặc biệt là những người thiểu số. Tất cả đểu khuyến cáo là khơng hiệu quả kinh tế và mức độ ơ nhiễm mơi trường rất cao. Chính Trung Cộng bị buộc phải đĩng cửa trên 100 nhà máy khai thác bauxite trong đĩ cĩ một nhà máy vừa mới khánh thành tiêu tốn trên 1 tỷ Nhân dân tệ vì khơng giải quyết được áp lực của người dân và sức ép của luật mơi trường.

Tuy nhiên, trong vịng chưa đầy một tháng qua, hai sự kiện nỗi bật là sự kiện đánh phá nhà thờ Tam Tịa ở Quảng Bình và gần đây nhứt, việc đánh đập tăng ni và tống xuất ra khỏi tu viện Bát Nhã ở Lâm Đồng đã làm xơn xao dư luận trong và ngồi nước cũng như trên thế giới.

Câu hỏi được đặt ra là, tại sao những sự kiện đánh phá tơn giáo lại nở rộ ra trong thời điểm hiện tại nầy?

Tất cả chúng ta điều biết CS Việt Nam đang nhức nhối và gánh chịu rất nhiều áp lực từ phía người dân trong nước và hải ngoại vì những việc làm “sai trái” trong khi chấp nhận cho Trung Cộng (TC) tiến chiếm đất biên giới miền Bắc, để mất Hồng Sa và một số đảo ở Trường Sa, để TC cấm cột mốc ở Đão Bảy Cạnh, đão lớn nhứt ở Cơn Sơn, lãnh hải bị thâu hẹp và ngư dân đánh cá Việt Nam bị xua đuổi và bị đánh chìm tàu, cùng sự kiện để cho người Hán xâm nhập vào Việt Nam khơng cần hộ chiếu….

Nhưng một sự việc quan trọng nhứt là, CS Việt Nam lại để cho TC khai thác dưới danh nghĩa là khai thác Bauxite ở cao nguyên Trung phần Việt Nam qua cơng ty Chinalco. Việc làm nầy tạo ra cơ hội cho TC đem nguồn nhân sự đĩng cùng khắp ở Việt Nam đặc biệt là ở Tân Rai (Lâm Đồng), Nhân Cơ (Đắk Nơng), và Nơng Sơn (Quảng Nam).

Trong một số bài viết trước, chúng tơi đã chứng minh là TC đến các vùng vừa kể trên khơng phải để khai thác bauxite mà là khai thác quặng mỏ uranium.

Ngày 21 tháng 4 năm 2009, tại Cơng ty NWT Uranium Corp. ở Toronto, Canada, Ơng Chủ tịch Tổng Giám Đốc John Lynch đã cơng bố bản tin sau khi họp với đối tác là Việt Nam rằng, Cơng ty đã đồng ý trên nguyên tắc về việc chia sẻ, khai triển và khai thác quặng mỏ Uranium ở Việt Nam. Quả thật đây là một chỉ dấu cho thấy giả thuyết cĩ nguồn nguyên liệu phĩng xạ ở cao nguyên Trung phần Việt Nam là cĩ thật. Chính nhờ đĩ mới cĩ những giao kết thăm dị và khai thác giữa Việt Nam với các đối tác khác. Và TC, đã nắm bắt cũng như biết nguồn nguyên liệu nầy, vì vậy cho nên mới thực hiện dự án khai thác quặng mỏ bauxite để đánh lạc hướng thế giới thêm một lần nữa.

Theo ước tính sơ khởi của cơng ty NWT thì cao nguyên cĩ trữ lượng là 210 ngàn tấn quặng oxid uranium (U3O8) với nồng độ trung bình là 0,06%. Và ở một tài liệu khác cho biết hàm lượng quặng mỏ oxid uranium ở mỏ than Nơng Sơn, Quảng Ngãi là 8.000 tấn quặng và cĩ cùng một nồng độ trung bình với oxid uranium ở Cao nguyên.

Theo ước tính của Hội đồng Năng lượng Thế giới (World Energy Council), trữ lượng Urranium trên thế giới là 13,792 triệu tấn, trong đĩ Việt Nam chứa 1,7% tức 237.300 tấn. Riêng tại vùng Nơng Sơn, sự phân bổ được ghi nhận qua ước tính RAR (Resonable Assured Resources) như sau: tại Bến Giang (Đơng Nam Nơng Sơn) 1.337 tấn, Khế Hịa và Khế Cao, 6.744 tấn, và An Điền cĩ trữ lượng 500 tấn quặng với nồng độ 0,034% Uranium.

Trở lại vấn đề Bát Nhã.

Phải chăng CS Việt Nam, trước quá nhiều áp lực của cộng đồng thế giới nhứt là người Việt trong và ngồi nước, đã tìm cách xoay chuyển sự chú ý của dư luận sang một hướng khác để người Việt quốc gia tập trung vào câu chuyện đàp áp tơn giáo mà quên đi hành động “Lê Chiêu Thống-Trần Ích Tắc” của họ? Vì làm như vậy, CS Việt Nam đã thu hẹp tầm quan trọng của vấn đề để chuyển sang tính cách nội bộ trong quốc gia, trong việc đàn áp tơn giáo hơn là những việc bán nước tày trời kể trên, liên quan đến những sự xáo trộn tồn vùng Đơng Nam Á cĩ thể xảy ra khi câu chuyện TC khai thác quặng mỏ uranium trở thành hiện thực.

Thêm một hướng suy khác nữa là, vị trí của tu viện Bát Nhã nằm trong địa bàn hoạt động mà CS Việt Nam đã nhượng cho TC khai thác bauxite ở xả Lộc Thắng chỉ cách thị xả Bão Lộc 15 Km về hướng Bắc với diện tích khai thác là 2.297 Km2. Tu viện Bát Nhã hiện cĩ khoảng 400 tu sinh và cĩ nhiều xác suất là số tu sinh sẽ tăng lên nhiều hơn nữa theo thời gian. Do đĩ, chủng tử của Phật giáo chắc chắn sẽ được gieo trồng cùng khắp ở miền cao nguyên trù phú nầy trong một tương lai khơng xa. Việc làm nầy sẽ là một trở ngại lớn cho sự cĩ mặt của TC ở đây, vì tơn giáo là một khắc tinh của chủ nghĩa cộng sản. Do đĩ, dưới áp lực của đàn anh nước lớn và theo lệnh của ơng chủ, CS Việt Nam bắt buộc phải triệt hạ tu viện Bát Nhã với bất cứ giá nào, dưới mọi hình thức đán áp man rợ như thời Trung Cổ để làm trọn nhiệm vụ bán nước của mình.

Qua hai hướng suy nghĩ trên về vấn đề đàn áp tu viện Bát Nhã trong giai đoạn hiện tại của CS Việt Nam, từ đây chúng ta cĩ thể liên kết vào sự kiện khai thác bauxite hay uranium của TC tại vùng nầy, hay nếu nĩi theo ngơn ngữ của Việt Nam hiện tại thì hai vấn đề trên cĩ “liên hệ hữu cơ” mật thiết với nhau.

Do đĩ, người Việt hải ngoại và quốc nội cần nên cảnh giác và thận trọng trong mục tiêu tranh đấu ngõ hầu nhận thức rõ đâu là Diện và đâu là Điểm như sự việc dựng chuyện khai thác quặng mỏ bauxite, nhưng thực sự là khai thác quặng mỏ uranium. Và việc đàn áp tu sinh Bát Nhã chính là để che đậy hành động bán nước của những ngườ cầm quyền hiện tại.

Sau cùng, để kết luận, CS Việt Nam đã cố tình dựng lên vụ Bát Nhã là tạo ra một phát súng nhắm vào hai hướng, một là làm sai lạc hướng đấu tranh của người Việt cịn nặng tình với quốc gia, và hai là nhằm vào việc xĩa tan mầm mống phật giáo trong lịng dân tộc

Việc làm nầy chắc chắn sẽ được khắc ghi vào những trang sử đen tối nhứt của Việt Nam thời hiện đại qua câu chuyện Bắc thuộc lần thứ 5.


Mai Thanh Truyết




Thật vậy, dân tộc Việt Nam hãy can đảm đứng lên để lật qua những trang sử cộng sản đẫm máu và đau thương. Đã quá trễ rồi. Ngày nào còn cộng sản, thì còn chết chóc, tù đày, tự do, nhân quyền còn bị chà đạp.
Nhà cầm quyền cộng sản, hơn lúc nào hết, luôn buộc người dân lo nghĩ đến chuyện miếng ăn, cái mặc. Cái bụng lúc nào cũng phải cảm thấy còn đoi đói, chưa no. Và người dân thì thiếu thốn nhu yếu phẩm, lo chạy gạo từng bữa. Ðủ hôm nay thì thiếu ngày mai, hay được nồi cơm sáng, thì lại chưa có nồi cơm chiều. Cuộc đời cứ quần quật lo đói rách như thế, thì xin hỏi, còn chi thì giờ mà nhân dân nghĩ đến tranh đấu, hoặc đòi hỏi tự do dân chủ nhân quyền?
Cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh từng dạy: “Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình thì càng ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Còn dân thì ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mà mong đợi trông cậy ở vua ở quan, giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay một người, hay một chính phủ muốn làm sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không kiểm xét, thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường. Anh chị em đồng bào ta đã hiểu thấu các lẽ, thì phải mau mau góp sức lo toan việc nước mới mong có ngày cất đầu lên nổi”.
"The religion of the future will be a cosmic religion. The religion which is based on experience, which refuses dogmatism. If there's any religion that would cope with modern scientific needs it will be Buddhism." Albert Einstein

Tôn giáo trong tương lai sẽ là tôn giáo của vũ trụ. Tôn giáo này dựa trên kinh nghiệm và không chấp nhận chủ nghĩa giáo điều. Nếu có một tôn giáo nào tương thích với khoa học hiện đại, đó chính là Phật Giáo.




Bạn Ơi Hãy Cùng Nhau Đấu Tranh Cho Cuộc Sống Của Mình & Tương Lai Của Con Cháu Mình !!!



Nhân Dân Cần Nhận Diện Bộ Mặt Thật Của Giới Cầm Quyền. Phải Hành Động Cụ Thể Đối Với Bọn Chúng !!!



Chỉ Mặt, Nhận Diện Bọn Cán Bộ Óc Đất, Lũ Công An Lưu Manh, Đám Quan Chức Tham Nhũng, Tay Sai !!!

Công Nhân Bị Đánh Đập Tàn Nhẫn, Dã Man !!!


Followers