29 August 2009

Dùng tiền dân củng cố đảng


Vì đại đa số các cán bộ quản lý các doanh nghiệp nhà nuớc nằm trong nhưng “đại gia đình” của các lãnh tụ, họ chia nhau địa vị trong các xí nghiệp công lớn. Và họ biết chắc là họ không thể cạnh tranh với các xí nghiệp tư trên một sân banh bằng phẳng, dù các chủ nhân xí nghiệp tư đó có gia nhập đảng cộng sản cũng chẳng có lợi gì cho họ. Cho nên, nếu có dịp là họ dùng tiền của nhà nước, dùng quyền hành nhà nước trao cho, để làm nghiêng sân chơi về phía có lợi cho họ! Chương trình kích thích kinh tế là một cơ hội bằng vàng để “quốc tiến dân thoái.”

Ngô Nhân Dụng


Marx và Engels đã lên án đồng tiền, coi đó chỉ là một khí cụ để giai cấp thống trị tư bản bóc lột giai cấp vô sản bị trị. Cho đến thập niên 1970, nhiều người cộng sản ở Âu Châu vẫn còn nuôi giấc mộng loài người sẽ tiến tới một xã hội không cần đến tiền tệ. Khi đó, mọi người đều làm việc cho guồng máy sản xuất chung mà không cần lãnh lương. Mỗi khi ai có nhu cầu nào thì cứ việc tới các cửa hàng chung, lấy về nhà sử dụng (Un Monde sans Argent: Le Communisme; Paris, 1975).

Các đảng Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam hiện nay trên lý thuyết vẫn theo chủ nghĩa Marx-Engels, nhưng họ học ngược lý thuyết của hai ông thầy. Bài học mà hai nhà tiên tri này dạy cho họ là: Ðồng tiền là một khí cụ để giai cấp thống trị bóc lột đám dân bị trị. Họ áp dụng ngay phương pháp này, để củng cố quyền lực và quyền lợi của quý ngài lãnh tụ đảng đang ngồi giữ các chức vụ trong guồng máy hành chánh và kinh tế.

Năm ngoái khi kinh tế thế giới rơi vào cơn khủng hoảng, chính phủ Bắc Kinh đã dùng 4,000 tỷ nhân dân tệ (khoảng 585 tỷ Mỹ kim, bằng 14% tổng sản lượng nội địa năm đó) gọi là để kích thích nhu cầu trong nền kinh tế, cũng giống như các kế hoạch kích thích ở các nước Âu Mỹ. Chương trình ở Trung Quốc bắt đầu từ Tháng Mười Một, năm 2008, đến nay đã đưa tới một hậu quả là nó làm trì hoãn việc cải tổ cơ cấu nền kinh tế, có khi còn quay chiều đi ngược lại. Vì số tiền trên được dùng nuôi nấng các doanh nghiệp nhà nuớc, tiêu tiền vào những việc phí phạm trong khi chèn ép các xí nghiệp tư nhân cho họ bị khó khăn hơn. Ở Trung Quốc thế nào thì Việt Nam chắc cũng không khác, vì ít khi thấy Hà Nội có sáng kiến nào khác với đường lối của Bắc Kinh. Chính các chuyên gia kinh tế ở Trung Quốc đã nêu lên nhưng hậu quả trên, chứ không phải do “các thế lực thù nghịch” nào cả.

Giáo Sư Vương Nhất Giang (Wang Yijiang) thuộc Viện Ðại Học Thương Mại Trường Giang (Cheung Kong), Bắc Kinh, nói rằng “Chương trình kích thích kinh tế đã khiến cho cơ cấu kinh tế ở Trung Quốc càng mất cân bằng hơn.” Cảnh mất cân bằng trầm trọng hơn là số tiền kích thích được dồn cho các doanh nghiệp nhà nước, còn lãnh vực tư nhân bị bỏ rơi. Sau 30 năm cải cách kinh tế, đây là lần đầu tiên tỷ lệ hoạt động trong lãnh vực tư doanh giảm xuống thay vì tăng lên. Mà chính các xí nghiệp tư nhân cung cấp ba phần tư số công việc làm cho giới lao động Trung Quốc.

Ở các nước theo kinh tế thị trường, các ngân hàng chỉ cho vay khi thấy xí nghiệp xin vay có lời và dự án sử dụng tiền vay có triển vọng sinh lợi. Ở Trung Quốc thì ngược lại. Trong sáu tháng đầu năm 2009, các ngân hàng Trung Quốc đã đem một số tiền khổng lồ cho các xí nghiệp vay qua các món nợ mới: 7370 tỷ nhân dân tệ, gấp ba lần số nợ mới trong nửa đầu năm 2008, vượt cao hơn mục tiêu của cả năm. Ngân hàng NBP Paribas tính số nợ mới này lớn bằng 45% tổng sản lượng nội địa và nhận xét chưa có một hệ thống ngân hàng nước nào đã bơm nhiều tiền vào nền kinh tế như vậy.

Theo Royal Bank of Scotland thì các xí nghiệp vay được tiền rồi không dùng hết, đã đem 20% mua cổ phiếu và 30% dùng vào việc mua hoặc xây dựng nhà cửa mới, và các vụ đầu tư không sản xuất. Hai thị trường cổ phần và thị trường địa ốc lên cơn sốt báo động chính quyền Bắc Kinh, họ phải ra lệnh các ngân hàng “tốp” lại. Nhưng các quan chức lãnh đạo từ xí nghiệp đến ngân hàng đều đã có dịp bỏ túi rồi. Từ Tháng Mười Một năm ngoái đến đầu Tháng Bảy, giá chứng khoán đã tăng 64% trước khi tụt xuống 14% trong ba tuần lễ đầu Tháng Tám sau khi nghe tin lệnh ngưng cho vay.

Khi ngân hàng của đảng đem tiền cho các doanh nghiệp nhà nước do đảng kiểm soát, không những khiến cho các xí nghiệp tư nhân không thể cạnh tranh với xí nghiệp nhà nước; mà còn giúp các cán bộ có dịp tấn công bỏ tiền ra mua các xí nghiệp tư bị yếu để đưa chúng vào trong vòng kiềm tỏa của họ. Một vụ “tấn công” đang được cả nước Trung Hoa và giới kinh doanh nước ngoài chú ý là công ty Sắt Thép của tỉnh Sơn Ðông đang hiến giá mua công ty sắt thép tư Rizhao (Nhật Chiếu), đẩy người làm chủ nhiều cổ phần nhất của công ty tư này xuống hàng cổ đông thứ yếu.

Năm ngoái công ty Rizhao được ước tính trị giá 30 tỷ nguyên. Trong 6 tháng đầu năm nay Rizhao khai có lời 1.8 tỷ nguyên trong khi Sơn Ðông khai lỗ 1.3 tỷ. Nhưng nay Sơn Ðông đang đề nghị trả 16 tỷ nguyên để làm chủ 2 phần ba cổ phần trong Rizhao, phần còn lại để cho ông Ðỗ Song Hoa là chủ nhân đa số cũ, là người đã từng được xếp hạng giầu thứ nhì ở Trung Quốc. Ông Hoa đã tính kế “thoát xác” bằng cách chia một nửa quyền sở hữu cho một công ty ở Hồng Kông, do một thân nhân của ông Hồ Cẩm Ðào làm chủ; nhưng việc không xong.

Nếu cuộc tấn công này thành công, nội trong tuần tới sẽ biết, thì ông Ðỗ Song Hoa (Du ShuangHua) vẫn có thể coi là may mắn. Vì năm ngoái, người được mô tả là giầu nhất Trung Quốc đã biến mất một cách bí mật khiến các cổ phiếu của công ty Gome trên thị trường Hồng Kông phải ngưng mua bán, trước khi có tin của cảnh sát nói ông ta bị bắt về tội gian lận chứng khoán. Chủ nhân công ty Gome về điện khí và khí cụ điện tử là Hoàng Quang Dục (Huang GuangYu) có tội lớn nhất là đã làm ăn khá giả ngoài vòng kiểm soát của đảng Cộng Sản Trung Quốc.

Hiện tượng các doanh nghiệp nhà nước lấn bước và mua chiếm các xí nghiệp tư nhân được báo chí Trung Quốc gọi là “quốc tiến dân thoái,” (guo jin min tui). Chính phủ Bắc Kinh vẫn nói họ không hề có một chính sách bành trướng lãnh việc quốc doanh để lấn áp lãnh vực tư doanh. Nhưng nhân cơ hội kinh tế thế giới khủng hoảng và dùng các món tiền “kích thích” của nhà nước cộng sản, các xí nghiệp quốc doanh đang lấn chiếm quay ngược kim đồng hồ của chương trình tư nhân hóa đã thi hành từ thời Ðặng Tiểu Bình. Với số tiền khổng lồ mà các ngân hàng của đảng có thể đưa cho các xí nghiệp của đảng vay, các cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp nhà nuớc được cơ hội “vùng lên.” Những nhà tư doanh, là “lực lượng sản xuất tiên tiến” theo lối nói của đảng Cộng Sản, đã được mời gia nhập hàng ngũ đảng viên sau khi họ sửa cương lĩnh; nhưng vẫn chưa làm hài lòng giai cấp thống trị. Vì đại đa số các cán bộ quản lý các doanh nghiệp nhà nuớc nằm trong nhưng “đại gia đình” của các lãnh tụ, họ chia nhau địa vị trong các xí nghiệp công lớn. Và họ biết chắc là họ không thể cạnh tranh với các xí nghiệp tư trên một sân banh bằng phẳng, dù các chủ nhân xí nghiệp tư đó có gia nhập đảng cộng sản cũng chẳng có lợi gì cho họ. Cho nên, nếu có dịp là họ dùng tiền của nhà nước, dùng quyền hành nhà nước trao cho, để làm nghiêng sân chơi về phía có lợi cho họ! Chương trình kích thích kinh tế là một cơ hội bằng vàng để “quốc tiến dân thoái.”

Nếu đảng Cộng Sản Trung Quốc tiếp tục con đường này, nền kinh tế cả nước sẽ bị níu kéo trở lại tình trạng kém hiệu năng; vì trong 30 năm qua các xí nghiệp tư là khu vực hoạt động mạnh nhất, tạo nên nhiều công việc làm cho dân nhất.

Một chuyên gia kinh tế cao cấp trong chính quyền Bắc Kinh cũng lên tiếng cảnh cáo việc sử dụng tiền kích thích kinh tế không đúng. Ông Dư Vĩnh Ðịnh (Yu YongDing), từng làm trong Ủy Ban Tiền Tệ của Ngân Hàng Nhân Dân (tức ngân hàng trung ương Trung Quốc) viết trên nhật báo Financial Times trong tuần này, báo động rằng chương trình kích thích kinh tế đang kéo dài tình trạng thiếu cân bằng trong cơ cấu kinh tế quốc gia. Sự phát triển trong các năm qua dựa quá nhiều trên số gia tăng đầu tư vào cơ sở sản xuất tạo nên cảnh dư thừa không dùng tới, nay chuyển sang hạ tầng cơ sở mà vẫn không được đưa vào lãnh vực tiêu thụ. Có 89% số tiền kích thích đem dùng trong các dự án hạ tầng cơ sở (xa lộ, thiết lộ, phi trường) mà chỉ có 8% được dùng kích thích tiêu thụ. Trong khi đó, số tiêu thụ ở Trung Quốc đã quá thấp so với các hoạt động kinh tế khác. Người dân tiêu thụ bị hy sinh cho các doanh nghiệp nhà nước dùng tiền đi vay vào các dự án không chắc có lời, mà không biết trong tương lai có thể trả nợ được hay không.

Ông Dư Vĩnh Ðịnh viết, “Tiền kích thích đã làm cho tình trạng dư thừa khả năng sản xuất đã nghiêm trọng càng trầm trọng hơn, trong khi tiền đem cho lại được dùng để thổi cho quả bong bóng chứng khoán phồng lên nguy hiểm.” Ông cho biết số tiền đầu tư vào cơ sở và thiết bị đã tăng 36% so với năm ngoái, và đưa tỷ lệ của hoạt động đầu tư lên 50% tổng số GDP. Trong khi đó, người dân Trung Hoa tạo ra được 100 đồng của cải thì chỉ được tiêu thụ 35 đồng, tỷ lệ thấp nhất trong số các nền kinh tế lớn, so với ở Mỹ là 70 đồng hay ở Ðức là 60 đồng.

Ở nước Mỹ, khi chính quyền Obama đưa ra chương trình kích thích kinh tế gần 800 tỷ Mỹ kim, nhiều đại biểu Quốc Hội đối lập đã chỉ trích rằng nhiều món tiền trong số đó được đem vào những hoạt động kích thích dân tiêu thụ mà chỉ nhắm thực hiện nhưng chính sách của đảng Dân Chủ, thí dụ như nghiên cứu nguồn năng lượng mới và bảo vệ môi trường. Nhưng có một chính phủ Mỹ nào dám dùng tiền của dân đóng thuế để kích thích riêng cho các cán bộ kinh tế của mình có thể làm giầu thêm. Vì một nước có báo chí tự do và Quốc Hội độc lập không cho phép chính quyền làm như vậy.

Ở Trung Quốc thì rõ ràng nhưng số tiền do chính phủ đem kích thích kinh tế chỉ nhắm làm giầu cho các cán bộ quốc doanh. Ở Trung Quốc không ai đặt câu hỏi tại sao lại dùng tiền đóng thuế của dân như vậy. Vì không ai dám nói đó là tiền của dân. Nhiều người nghĩ đó là tiền của đảng Cộng Sản, họ muốn làm gì thì làm! Phải có các nhà kinh tế phân tích cho người dân thấy tiền đóng thuế của họ được đem dùng cho ai hưởng!

Ðảng Cộng Sản Trung Quốc đã làm đúng việc mà Marx và Engels kết tội giai cấp tư bản khi xưa. Là dùng tiền bóc lột của dân lao động để củng cố địa vị và quyền lợi giai cấp thống trị! Cộng Sản Việt Nam cũng đang theo từng bước chính sách của đảng đàn anh, nhưng chưa thấy trong nước có tờ báo nào dám nói lên nhưng lời cảnh cáo như các ông Dư Vĩnh Ðịnh và Vương Nhất Giang đã làm! Nếu Marx và Engels sống trong thời này chắc hẳn họ phải viết một bộ sách “Tư Bản Nhà Nước Ðộc Quyền” để hô hào người dân lao động đứng lên làm cách mạng!


Ngô Nhân Dụng


26 August 2009

Trí thức và chế độ cộng sản


Một chế độ được dựng xây và bảo vệ bằng sự triệt hạ, nhục mạ trí thức chắc chắn không thể trường tồn. Chế độ đảng trị Việt Nam không thể là ngoại lệ. Vấn đề quan trọng là thời gian. Vì thời gian cũng có khả năng biến “sống hèn” thành tập quán.

Phạm Việt Vinh


Tiến sĩ A đã từng là một giáo sư người Đức giỏi tại trường Đại Học Kỹ Thuật thành phố E., một đô thị lớn thuộc Đông Đức cũ. Ông là giáo sư trưởng ngành khi tôi còn là một du học sinh Việt Nam tại E. vào giữa những năm 70 của thế kỷ trước. Đối với giới sinh viên hồi đó, ông là một người thầy vừa được quý mến, vừa được kính trọng. Trong giờ ông lên lớp, giảng đường im phăng phắc, tất cả sinh viên từ người Đức, người Hung đến người Việt đều chăm chú nghe, đều cắm đầu ghi chép hầu như lấy từng lời của ông vì mọi điều ông nói ra đều có vẻ như vô cùng quý giá. Vào cuối những năm 80, ông là người trực tiếp hướng dẫn tôi làm luận án nghiên cứu khoa học. Lúc này, ngoài vai trò giáo sư trưởng ngành, ông còn đảm nhiệm chức vụ chủ tịch công đoàn khoa.Vào giờ ăn sáng, ăn trưa, xung quanh ông lúc nào cũng có dăm bảy đồng nghiệp ngồi cùng với một thái độ nể trọng.

Tháng 10 năm 1990, nước Đức thống nhất. Tại tất cả các cơ quan ở Đông Đức, người ta tiến hành kiểm tra, phát giác hệ thống chân rết của bộ máy An Ninh Quốc Gia Stasi khét tiếng. Từ đó, vào giờ ăn sáng, ăn trưa, tôi thấy giáo sư A hầu như chỉ ngồi có một mình. Rồi tôi ngạc nhiên khi thấy nhiều đồng nghiệp của ông có vẻ như lảng tránh ông và đôi lúc nhìn ông với những ánh nhìn khinh ghét. Một thời gian sau, có người nói với tôi: giáo sư A là “IM” (viết tắt của tiếng Đức: inoffizieller Mitarbeiter), là người ngầm cung cấp tin tức cho cơ quan An Ninh Quốc Gia. Tuy vẫn còn là giáo sư, tiến sĩ tại trường, nhưng tôi thấy ông càng ngày càng cô đơn hơn, buồn thảm hơn. Năm 1992, ông chủ động xin nghỉ hưu trước thời hạn. Với tư cách học trò cũ, tôi thỉnh thoảng vẫn đến thăm ông. Và ông kể với tôi: với vị trí là giáo sư trưởng ngành và chủ tịch công đoàn, ông vừa là nhà lãnh đạo chuyên môn, vừa là người có thể nhìn nhận được nhiều mặt trong cuộc sống của hơn 300 giáo viên, cán bộ khoa học và nhân viên trong khoa. Rồi một ngày, ông nhận được giấy mời của cơ quan Stasi. Tại trụ sở Stasi của tỉnh, người ta yêu cầu ông cộng tác. Việc cộng tác sẽ đảm bảo cho vị trí công tác và sự thăng tiến của ông. Việc chối từ sẽ được đánh giá là sự bất hợp tác với cơ quan bảo vệ quốc gia, sự trốn tránh trách nhiệm của một đảng viên cộng sản. Đối với ông, lời yêu cầu đó là một sự bắt buộc. Và ông nhận lời. Nhiệm vụ của ông là thường xuyên báo cáo với cơ quan an ninh quốc gia về khả năng chuyên môn, và đặc biệt là về thái độ chính trị cũng như diễn biến tư tưởng của đồng nghiệp và cán bộ dưới quyền. Ông kể rằng ông đã không hề làm những báo cáo sai sự thật. Nhưng cũng vì những báo cáo của ông mà có những tiến sĩ không bao giờ được trao đề tài nghiên cứu quan trọng, có những giáo viên, nhân viên bắt buộc phải đổi nghề. Ngược lại, ông được bầu vào Đảng uỷ trường đại học, được cấp một khoảnh đất rộng rãi để xây lên một biệt thự khang trang bên cạnh các biệt thự của nhiều quan chức lãnh đạo thành phố.

Rồi cuộc đời đã không như ông tưởng. Nhà nước Cộng Hoà Dân Chủ (CHDC) Đức sụp đổ. Hồ sơ bộ máy Stasi bị phanh phui. Nhiều đồng nghiệp, bạn bè ông đã được đọc những dòng ông ngầm viết về họ. Trong một buổi họp toàn khoa, ông đã đứng lên thành thật xin lỗi họ. Nhưng dù có muốn, họ cũng không có thể nhìn ông được như xưa. Ông không bị truy cứu hình sự, không bị trừng phạt, nhưng khi biết vào những lúc trao đổi ngày nào, bên cạnh con mắt một nhà khoa học, một người bạn, một người đồng nghiệp, ông còn có một con mắt khác để nhìn họ, soi họ dưới một góc độ khác, thì đối với họ, ông là một người hai mặt, và ngày nay họ không thể tin ông. Qua bàn tay (dù muốn hay không) của ông, có những người khác chính kiến với nền chính trị chính thống đã bị thiệt thòi. Ở một mức độ nào đó, họ có quyền coi ông là kẻ phản bội bạn bè. Là một người thông minh và học cao, có lẽ ông biết rõ điều đó, và ông cũng biết rõ uy quyền khủng khiếp của cơ quan an ninh chính trị. Nhưng có thể bản thân ông cũng không biết, khi nhận cộng tác ngầm với Stasi, trong tâm lý của ông có bao nhiêu phần trăm là lòng tin vào chế độ, bao nhiêu phần trăm là sự sợ hãi, và bao nhiêu phần trăm là ước muốn công danh, biệt thự, xe hơi. Kết cục là bên cạnh việc vẫn sử dụng ông với năng lực một nhà khoa học, chế độ cộng sản Đông Đức đã biến ông thành một người mật thám. Người ta đã dùng lòng tin, sự sợ hãi, nỗi ham muốn lợi quyền để bẻ cong tư cách trí thức của ông, để ông không còn được trung thực, không còn được ngay thẳng. Nhân danh việc bảo vệ chế độ, người ta đã đánh sụp ông hoàn toàn với tư cách một người thầy giáo, một nhà khoa học.

Có lẽ khi nhìn kỹ, tư chất trí thức chưa bao giờ là đồng minh của một chế độ cộng sản. Stasi Đông Đức là con đẻ của cơ quan an ninh Liên Xô. Các bài bản của Stasi phần lớn được học hỏi từ bộ máy an ninh Xô Viết. Lịch sử đã cho thấy rõ, ngay sau khi chính quyền Xô Viết được thành lập vào năm 1917, đối tượng bị cơ quan an ninh đánh phá khốc liệt và tàn bạo nhất là tầng lớp quý tộc và trí thức. Với tuyên bố xây dựng nhà nước công-nông, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, một thể chế công khai coi trí thức là một nhân tố phụ trong xã hội. Dưới lưỡi hái của các cơ quan “chống phản cách mạng”, “an ninh quốc gia” như Cheka, KGB, hàng trăm ngàn trí thức đã bị sát hại, tù đày, trục xuất. Những trí thức được đào luyện trong chế độ mới một mặt vẫn phải miệt mài sản sinh ra những thành quả khoa học, kỹ thuật diệu kỳ, mặt khác vẫn nằm trong sự giám sát nghiêm ngặt và khi cần vẫn bị sự khủng bố, triệt hạ sắt máu của bộ máy an ninh chính trị.

Người ta sẽ có lý khi cho rằng, do xuất phát từ chủ thuyết “vô sản”, do sức mạnh chính quyền ban đầu được dựa vào những thành phần xã hội đơn giản nên tất cả các chính quyền cộng sản đều có mối thâm thù với tầng lớp trí thức. Và do muốn dựng xây thế giới trên cơ sở một thứ tôn giáo trá hình, nên các đảng cộng sản phải coi tính trung thực, sự hoài ước “Chân, Thiện, Mỹ” – những đặc tính cần thiết của giới trí thức, là những liều thuốc độc. Biểu hiện căm thù trí thức đạt tới đỉnh cao với sự hình thành nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Cuộc cách mạng cộng sản Trung Quốc được lãnh đạo bởi Mao Trạch Đông, con của một trung nông, và được dựa hầu như hoàn toàn vào sức mạnh “nông thôn bao vây thành thị”. Vì vậy, Tôn Dật Tiên, Quốc Dân Đảng, với hậu thuẫn chính là tư sản, trí thức phải bị gạt bỏ, triệt tiêu. Trí thức được đánh giá cao hơn “cục phân” phải bị xử lý kỹ trước khi sử dụng, phải bị đội mũ lừa, bị cải tạo lao động tại nông thôn và phải bị tàn sát trong “Đại Cách Mạng Văn Hoá Vô Sản”.

Là con đẻ, là đàn em của các chính quyền cộng sản Xô Viết, Đông Đức, Trung Hoa nên trong thực chất, chính quyền hiện nay ở Hà Nội cũng phải mang trong máu mối thâm thù trí thức. Khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông miền Bắc từ cuối những năm 60, người viết bài này cũng đã được dặn dò rất kỹ rằng tầng lớp trí thức là thành phần không kiên định, hay nghiêng ngả và dễ dàng đi với giai cấp tư sản. Đối với chế độ hiện nay, chủ thuyết đấu tranh giai cấp, coi công-nông là nền tảng cách mạng, khẩu hiệu “trí phú địa hào – đào tận gốc, trốc tận rễ” có thể là những vũ khí đã lỗi thời, được cất làm cổ vật. Nhưng điều quan trọng là chính những vũ khí đó đã tạo ra nền tảng của chính quyền hiện nay; chính tâm thức công-nông, bài trí thức đó vẫn đang quyết định hành xử của các cỗ máy công quyền hiện đại. Nhiều đại biểu Quốc Hội có học vấn thực thụ vẫn trộm phàn nàn về sức mạnh áp đảo của thành phần “ít học” trong Quốc Hội. Những thứ trưởng, bộ trưởng trẻ ngóng mong được làm một giới “kỹ trị” mới vẫn đang phải chịu sự điều hành hay nấp bóng của các đại công thần xuất thân từ chiến trường, đồng ruộng hay thậm chí từ thành phần bất hảo. Những người gìn giữ và bảo vệ một chế độ như vậy đương nhiên sẽ căm ghét những phân tích, nhìn nhận tỉnh táo, khoa học. Khi bắt toàn dân phải nghĩ và đi theo “lề đường bên phải”, chính thể này không khác nhiều so với việc cách đây 50 năm, họ đã hành hạ những ai phản đối nhà nước muốn “đặt bục công an giữa trái tim người”. Trong khi đó, tận tìm sự hợp lý, vượt thoát vạch ngăn lại chính là tố chất cao nhất của người trí thức. Và điều này sẽ quyết định sức mạnh của một đất nước.

Chăng dây định lề đi cho trí thức là hành vi “phản tri thức”, phá hoại quốc gia. Khi thực thi chủ trương này, thì ngay cả với một đội ngũ khoa bảng cao trong bộ máy chính quyền, nhà nước Việt Nam ngày nay vẫn không vượt thoát được bản chất “công-nông” không thể gột rửa. Hơn nữa, khi xuất phát từ một quốc gia chưa có giai cấp công nhân, và một điền chủ với vài ba mẫu ruộng đã bị đem ra đấu tố, thì bản chất này có thể chỉ ở mức độ “tiểu nông” với những biểu hiện thiển cận trong nhìn nhận, giảo hoạt trong thái độ và tủn mủn trong hành vi. Với một chính quyền như vậy, giới trí thức có suy nghĩ độc lập phải được coi là hiểm hoạ. Tư tưởng chính trị mong manh có thể đã làm cho ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam lúc thì xác quyết “Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp”, lúc thì khẳng định “Trung Quốc là đồng minh chiến lược, toàn diện và lâu dài”, nhưng có lẽ, bản chất “tiểu nông” đã làm cho họ lúc nào cũng coi trí thức mãi mãi là đối thủ! Trong trận tuyến họ tạo ra với trí thức ấy, việc đàn áp, bắt trí thức suy nghĩ, hành động trong khuôn phép chắc chắn là một nhiệm vụ quan trọng của bộ máy an ninh cộng sản.

Trong hành xử chống lại một đối thủ bị căm ghét về tri thức và tư tưởng, việc tập trung đánh gục danh dự, nhân cách đối thủ là một đòn thông dụng của cơ quan an ninh chuyên chính.

Khi nhiều người Việt Nam yêu dân chủ hy vọng vào một trung tướng Trần Độ thì họ mang ông ra kiểm điểm về quan hệ nam nữ. Khi xã hội Việt Nam có vẻ như bừng tỉnh với những tiếng nói đối kháng thì họ trưng dẫn ra những bản kiểm điểm trong nhà tù của những người bị giam cầm nhằm chứng minh nạn nhân đã quỵ gối, đã phản lại chính mình. Không thể dùng lý luận để biện minh cho sự tồn tại của mình, họ gắng sức bôi nhọ các gương mặt phản kháng bằng những tình tiết riêng tư. Chỉ hai ba ngày sau khi bắt giữ luật sư Lê Công Định, họ tung lên các mạng thông tin bút tích và hình ảnh nạn nhân nói lời hối cải, xin tha thứ. Mọi phán đoán về sự khủng bố, ép cung của công an, hay về sự gục ngã về tinh thần của Lê Công Định cho đến nay vẫn chỉ là suy đoán. Điều chắc chắn là những phát biểu, bài viết, hành động của ông cho đến trước khi bị bắt là kết quả, là tinh hoa của một bộ óc trí thức cần thiết cho một xã hội văn minh. Khi không thể bẻ gẫy những lập luận của ông, nhà cầm quyền Việt Nam khoái trá đưa ra một Lê Công Định ảm đạm phủ nhận những suy nghĩ và hành vi trong lúc có thể được coi là tự do của mình. Trước và sau Lê Công Định, cơ quan an ninh Việt Nam đã và vẫn đang dùng mọi phương kế đàn áp, lừa phỉnh, nhiều khi giẫm đạp lên luật pháp của chính họ để bắt không biết bao nhiêu trí thức Việt Nam cúi mặt trước ống kính của công an để đọc lời chối bỏ những hành vi sáng suốt và đáng quý của mình. Đó là đỉnh cao của sự lăng nhục, triệt hạ nhân cách nói chung và trí thức nói riêng.

Một trong những bằng cớ cơ quan công an đưa ra để buộc tội các cá nhân và tổ chức đối kháng là “bị tác động và nhận tiền của nước ngoài”. Các bằng chứng được viện ra hầu hết đều khiên cưỡng và bịa đặt. Chính quyền và ban lãnh đạo Đảng Cộng sản không tin, hoặc là cố tình không tin, nhưng lại muốn bắt cả dân tộc phải tin rằng không còn có những con người Việt Nam, trí thức Việt Nam sẵn sàng hy sinh lợi ích riêng tư vì đất nước. Họ muốn chứng minh rằng đất Việt đã hết những con người vì nghĩa. Đó là sự phỉ nhổ vào nguyên khí quốc gia.

Trong cuộc “Thập tự chinh” huỷ diệt nhân cách trí thức – của cả người có học vấn cao lẫn của người dân thường, này, từ bài học của đàn anh Stasi, chắc chắn cơ quan an ninh Việt Nam cũng đang có hàng chục, hàng trăm nghìn “IM” như giáo sư A, ở một mức độ nào đó, hoặc là đang phải tàn phá danh dự của chình mình, hoặc là phải “sống hèn” như lời nhạc sĩ Tô Hải mới đây trong Hồi ký của một thằng hèn. Rồi cuối cùng, CHDC Đức cũng sụp đổ. Một chế độ được dựng xây và bảo vệ bằng sự triệt hạ, nhục mạ trí thức chắc chắn không thể trường tồn. Chế độ đảng trị Việt Nam không thể là ngoại lệ. Vấn đề quan trọng là thời gian. Vì thời gian cũng có khả năng biến “sống hèn” thành tập quán.


Phạm Việt Vinh
08/2009


Ðã Ðến Lúc Cộng Ðồng Việt Nam Hải Ngoại Cần Có Một Lãnh Tụ


Người làm việc lớn thì thường bỏ qua những tiểu tiết, kẻ làm việc nhỏ thì lại chú ý những tiểu tiết này để chống phá, nên chúng ta chưa có được một lãnh tụ. Nhưng ra ngõ gặp anh hùng là tục ngữ nói về truyền thống bất khuất của dân tộc ta, khi bị trị tự nhiên xuất hiện vị cứu tinh của dân tộc. Canh khuya không dám dang chân ngủ - Vì sợ sơn hà xã tắc xiêu. Hai câu thơ khẩu khí này của Lý Công Uẫn lúc làm chú tiểu trong chùa, sau này trở thành vua, lãnh đạo dân chúng đánh tan quân Tống xâm lược nước ta.

Song Hoài


Một lòng vì nước, vì dân

Một lòng vì nợ tang bồng năm xưa


(Xin tặng cho những nhà tranh đấu không mỏi mệt vì tha nhân)


Người Việt lưu vong hay tha hương ra nước ngoài thấm thoát đã 34 năm, thời gian đủ để gầy dựng một thế hệ thứ hai đầy đủ trí tuệ và bản lãnh Việt Nam, lớp tre già măng mọc có đồng bộ nhưng chưa hoàn toàn đồng sàn, sự phân hóa trong cộng đồng làm giới trẻ có cái nhìn thiên kiến đối với lớp người đi trước, chưa có một nhân vật tầm cỡ nào có thể đứng lên đại diện cho sức mạnh cộng đồng người Việt tỵ nạn làm cho các nước có người Việt định cư phải chú ý lắng nghe, thời gian đã chín muồi, đã đến lúc cộng đồng Việt Nam cần có một lãnh tụ để thống nhất tinh thần quốc gia và lãnh đạo cuộc đấu tranh cho tự do và dân chủ cho đồng bào trong nước.

Chưa có một sắc dân nào tại Hoa Kỳ mà có lòng yêu nước hào hùng và kiên trì như cộng đồng người Việt Nam, chưa có một sắc dân nào mà thành tựu rực rở một cách nhanh chóng như cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại, nhất là tại Hoa Kỳ. Con số trên 300,000 trí thức trong số 1,5 triệu người Việt, còn nhiều hơn cả nước Việt Nam cộng sản với dân số trên 80 triệu người. Người Việt thành công và góp mặt trên hầu hết các lãnh vực chính trị, quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội, và cả không gian nửa. Ðặc biệt là giáo dục, có rất nhiều giáo sư đại học người Việt có mặt tại các trường đại học nổi tiếng Hoa Kỳ. Nhưng tại sao tiếng nói của cộng đồng Việt Nam ít được chính giới Hoa Kỳ tôn trọng, và những gì mà họ hứa hẹn với ta hoàn toàn có tính cách chiếu lệ. Một thí dụ, trước khi qua Việt Nam tham dự hội nghị OPEC năm 2007, Tổng Thống Bush không mời cộng đồng mà mời 4 đại diện đảng phái và tổ chức đấu tranh vào họp để lắng nghe ý kiến đề nghị. Rồi năm sau, trước khi Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Việt cộng qua thăm Hoa Kỳ, ông Bush cũng mời vài tổ chức đấu tranh và đảng phái vào họp tại Tòa Bạch Ốc. Cho vui vậy thôi. Có thấy đề nghị về nhân quyền nào của ông Bush được Việt Nam lắng nghe và sửa chữa đâu. Tại sao vậy? Tại vì chúng ta chưa có một lãnh tụ tầm cỡ làm cho Hoa Kỳ phải biết lắng nghe, và áp lực thực sự với Việt cộng.

Ông Bush không thèm mời cộng đồng Việt Nam mà chỉ mời các thành phần kể trên, chứng tỏ ông ta "doesn't care" cộng đồng Việt Nam, và những gì mà chính phủ Hoa Kỳ làm đều là vì quyền lợi của Hoa Kỳ cả. Nói ra xin đừng tự ái. Nên nhớ điều này. Cộng đồng Việt Nam bị phân hóa và có nơi bể làm đôi, ai cũng muốn làm lãnh tụ cả. Tại Hoa Kỳ có hai tổ chức nhất định đòi đại diện cho cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ, một tổ chức nằm ở Houston thì không nghe nói có cộng đồng nào tham gia, còn tổ chức kia hiện nay ở New York có khoảng 40 cộng đồng. Chưa thấy hai cộng đồng này làm được điều gì ngoạn mục thuyết phục được chính giới Hoa Kỳ cả. Có hai tổ chức Tổng đại diện cho quân đội hoạt động giống nhau, một ở Houston gọi là Tổng Hội Cựu Chiến Sĩ không có quân, và một ở San Jose gọi là Tập Thể Cựu Chiến Sĩ tuy có quân nhưng không thấy có hoạt động nào khả dĩ thống nhất anh em quân đội được. Có hai Tổng hội sĩ quan Thủ Ðức, một ở New Jersy có quân và chịu họp hợp nhất, một ở Canada không có quân nhưng tự ái đùng đùng không chịu họp thống nhất tình đồng môn. Ngay trong các hội học sinh trung học, có nơi cũng bể đôi. Tôn giáo thì còn đau lòng hơn nửa, nhiều nơi bị chia đôi, thậm chí chia ba nửa. Ðặc biệt, đã có lúc tại nam California có hai tổ chức kiểu chính phủ cùng song song tồn tại, một của ông Nguyễn Hữu Chánh hoạt động một thời gian khá dài rồi tự rút lui gần đây, và một của ông Ðào Minh Quân hoạt động mổi năm đúng một lần, chỉ vào dịp Tết, đó là lên chúc Tết đồng hương, rồi thôi. Ở Little Saigon, có lúc có đến 03 tổ chức đại diện cho cộng đồng Việt Nam nam California, và một của bà Mai Công hoạt động chuyên về xã hội tại Quận Cam. Người Mỹ địa phương cũng khôn lắm, đi cốc phiếu thì đến ba cộng đồng kia, còn yễm trợ ngân sách hoạt động xã hội thì cho cộng đồng của bà Mai Công. Kẻ viết bài này đã có lúc cùng một thời gian, chạy show phóng sự về tin tức hoạt động của cả ba cộng đồng nói trên, rất đông vui hao.

Thực sự mà nói, chính giới Hoa Kỳ nhiều khi muốn nói chuyện với cộng đồng cũng không biết tìm ra ai là người đại diện thực sự có uy tín đối với cộng đồng để mà bàn việc lớn, mời ông A thì thế nào cũng bị bà B móc, mời đảng C thế nào cũng bị tờ báo D móc. Có nhiều người đã ví von rằng tại Việt Nam ta có truyền thống chia rẻ từ thời lập quốc, có 100 người con lại chia đôi, nửa lên núi theo cha, nửa xuống biển theo mẹ, nhưng dầu xuống biển hay lên núi gì cũng là Việt Nam, lúc quốc biến thì đoàn kết đấu tranh dành lại độc lập dân tộc như Hội Nghị Diên Hồng đời Nhà Trần, cho nên dân tộc Lạc Việt vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, và người Việt lưu vong ra nước ngoài mặc dù có lúc chống nhau, nhưng vẫn mang chung một khát vọng dân tộc trường tồn, tự do dân chủ.

Các tổ chức đấu tranh hay cộng đồng đều là người tỵ nạn, đều muốn đặt tinh thần quốc gia lên hàng đầu và tranh đấu cho tự do dân chủ cho quê hương là mục tiêu chính. Nhưng mạnh ai nấy làm, đôi khi còn dẵm chân lên nhau nửa. Nhưng đặc biệt, mặc dù có bất đồng, nhưng không bất hòa lâu làm trở ngại công cuộc tranh đấu chung. Nhiều khi có việc lớn, thì hai cộng đồng cùng danh xưng người Việt quốc gia tạm ngưng chống nhau, và tạm ngồi lại với nhau, chống cờ máu như vụ Trần Trường tại Bolsa năm 1999. Nhiều khi họ bỏ cả công ăn việc làm để đi biểu tình, tranh đấu, tất cả chỉ vì tha nhân. Người hiểu được việc này thì ít mà chỉ trích thì nhiều.

Tấm lòng của người Việt quốc gia thật bao la, họ chấp nhận mọi chỉ trích để tranh đấu tõ tấm lòng đối với quê hương. Nhưng đa số các cuộc tranh đấu đều rời rạc, khi cần mới có tham mưu vẽ ra kế hoạch, chứ chẳng có chuẩn bị gì trước cả, thấy đâu đánh đấy, nghe tin phái đoàn cộng sản đến đâu thì nơi đó mới lên kế hoạch đối phó, nên luôn ở thế bị động. Chúng ta có hàng ngàn Gia Cát Lượng, nhưng không có một lãnh tụ Ðinh Bộ Lĩnh thống lãnh quần hùng. Tại sao vậy.

Nếu bây giờ có ai mớm ý, cử ông X làm lãnh tụ thì ngay hôm sau sẽ có hàng tá ý kiến bơi móc, bới bèo ra bọ trên internet hay trên báo chí ngay. Cái khó của cộng đồng Việt Nam là ở chỗ này. Nhân vô thập toàn, không thể lấy khuyết điểm của người này trong quá khứ mà kết luận bản chất được. Ai cãm thấy mình không có tội hảy ném đá người đàn bà này trước, không có ai dám ném đá cả. Nhưng trong cộng đồng ta, hể mà ai mới nổi lên một chút thôi tất sẽ bị người khác kéo xuống. Tình trạng này đang xảy ra trong cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ. Vậy thì đến bao giờ chúng ta mới có lãnh tụ.

Ðã đến lúc chúng ta phải tìm ra một lãnh tụ, dầu có tam cố thảo lư cũng phải tìm cho được, đừng sợ chống đối. Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẫn, vừa đại diện Việt Nam Cộng Hòa vừa lên tiếng kêu gọi cộng đồng và các tổ chức đấu tranh ký vào tuyên cáo lãnh hải Việt Nam đệ trình cho Liên hiệp Quốc trước ngày 13/5/2009, thì lập tức có gần 300 tổ chức đấu tranh, cộng đồng các tiểu bang, đảng phái, tôn giáo, cựu tướng lãnh, cựu dân biểu nghị sĩ, cựu viên chức chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, và một số ít nhân sĩ lập tức hưởng ứng. Rõ ràng những nhân vật ký tên này đủ mọi thành phần của một quốc gia. Không phải họ tuyên dương ông Nguyễn Bá Cẩn lên làm lãnh tụ, nhưng mà vì ông Cẩn xuất hiện đúng lúc chúng ta cần người đại diện chính thức khiếu nại vụ biển đông với Liên Hiệp Quốc, thế mà có kẻ còn xuyên tạc nói là làm hộ cho Việt cộng. Rồi hai ngày sau khi ông Nguyễn Bá Cẫn đã nằm xuống, một tờ báo net cũng không tha, quên mất câu nghỉa tử là nghỉa tận của người Á đông, bơi móc ông Cẩn với mục đích chính là "chửi xõ và làm mất danh dự của các hội đoàn và tổ chức đã tham gia ký tên vào tuyên cáo này nhiều hơn là bơi móc ông Cẩn". Sự kiện này cho chúng ta thấy những kẻ có tâm huyết thường bị đánh phá chụp mũ, với mục đích chính là"Làm Cho Cộng Ðồng Việt Nam Không Thể Nào Có Một Lãnh Ðạo Thực Sự", cũng giống như các cuộc bầu cử dân biểu nghị sĩ quốc hội hay tại California, bất cứ người Việt nào ứng cử cũng đều bị chính truyền thông báo chí của người Việt đánh phá với mục đích chính là "Làm Cho Cộng Ðồng Việt Nam Không Có Ðại Diện Chính Thức Trong Quốc Hội Tiểu Bang Hoặc Liên Bang". Cộng đồng Việt Nam muốn có người lãnh đạo, muốn có đại diện trong các cơ quan chính quyền và quốc hội; và những kẻ phá thối vẫn bới bèo ra bọ để đánh phá với mục đích gì đây thì ai cũng rõ.

Trường hợp lớn nhất mà cộng đồng Việt Nam bầu hoặc tìm ra được một lãnh đạo, rồi vị này bị đánh phá, tự nhiên tất cả chúng ta đều biết được kẻ đánh phá là ai, phục vụ cho ai? Chỉ -có -Việt cộng - mới- sợ -chúng -ta -có -lãnh -tụ -nên -mới -cho -tay -sai -đánh -phá -hoặc -ngăn -chận, không cho người Việt quốc gia có người lãnh đạo tranh đấu chống lại bọn chúng. Chẳng lẽ người Việt quốc gia muốn quang phục quê hương lại không muốn có lãnh tụ giương ngọn cờ đại nghỉa à? Việt cộng đã và đang âm mưu chia rẽ cộng đồng và các đoàn thể, tôn giáo, đảng phái, qua nghị quyết 36, vì thế đã cho tay sai ngăn chận, bàn ra không cần lãnh tụ, bôi nhọ các nhà tranh đấu, và rất "ngây thơ cụ" đề nghị cộng đồng chờ cho...minh chúa tự nhiên xuất hiện!!! Những điều này đích thị phục vụ cho một âm mưu chia rẽ những nhà đấu tranh với cộng đồng, và làm cho những người có tâm huyết nãn lòng không muốn ra giúp nước. Ðừng lo, ở hải ngoại này, tất cả ai mà nổi tiếng thì trước sau đều bị xuyên tạc hoặc chụp mũ, và đã có một câu nói có thể gọi là rất chính xác để minh chứng cho điều này là "Ai mà nổi tiếng, ai tranh đấu mà không bị chụp mũ thì chưa trưởng thành". Không một lãnh tụ ở cõi thế gian này mà hoàn toàn được (No one is perfect. Nhân vô thập toàn). Bọn phản động cứ ra chiêu bài đánh phá, và chó sủa mặc chó, đoàn lữ hành vẫn cứ đi.

Sự kiện gần 300 tổ chức, đảng phái, tôn giáo, hội đoàn đấu tranh, mà trong đó có cả nhiều tổ chức cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ, chịu ký tên chung trong tuyên cáo lãnh hải, là hi hữu và độc đáo nhất trong lịch sử tỵ nạn của cộng đồng Việt Nam. Ðây rõ ràng nói lên cái khao khát có một lãnh tụ phát ra hiệu lệnh thiên hạ, chứ không phải tại vì có A hoặc ông B. Tổng hợp mạnh nhất tinh thần bất khuất của người Việt hải ngoại để tranh đấu cho sự tồn tại của một quốc gia, là một việc cần phải làm, mặc dù đã 34 năm trôi qua nhưng không quá trễ để có người lãnh đạo cộng đồng.

Tình hình Việt Nam hiện nay đang sôi sục như một hỏa diệm sơn sắp sửa phun lửa, lửa beauxite tây nguyên, lửa đông hải, và lửa bạo quyền đàn áp tôn giáo. Qua vụ bauxite, Việt cộng đã tuyên chiến với giới trí thức Bắc Hà, với các cựu công thần nhà nước. Qua vụ bán biển đông, Việt cộng đã tuyên chiến với giới Luật sư và những người trẻ yêu nước. Qua vụ đàn áp giáo dân Tam Tòa, đánh trọng thương hai vị linh mục tại Ðồng Hới, gây ra phẩn nộ dây chuyền với 500,000 giáo dân biểu tình hoặc hiệp thông cầu nguyện. Việt cộng luôn coi tôn giáo là thuốc phiện, Việt cộng không sợ những cuộc đấu tranh lẽ tẻ, nhưng sợ nhất là tôn giáo nổi lên tử vì đạo, nên tôn giáo bị đàn áp mãnh liệt nhất.

Toàn dân đã và đang sôi sục căm hờn cả Việt cộng lẫn Trung cộng về việc Việt cộng đàn áp tôn giáo, dâng Tây Nguyên và biển đông cho quan thày. Còn Trung cộng thì hầu như nắm toàn bộ kinh tế Việt Nam và tiếp tục khiêu khích biển đông, vạn bất nhất mà chiến tranh xảy ra thì cộng đồng người Việt hải ngoại không thể ngồi yên trước việc Trung cộng xâm lược Việt Nam. Rồi thì mạnh ai nấy quyên tiền trợ giúp chống Trung cộng, và đồng hương vì lòng yêu nước sẳn lòng mở hầu bao mà không bao giờ biết số tiền quyên góp sẽ đi về đâu. Phải có một lãnh tụ mới quyết định được đường lối đúng đắn cho cuộc đấu tranh sắp đến, mà nó có thể sẽ giống hệt như quốc gia và Việt minh cộng sản hiệp lực chống thực dân Pháp trước năm 1954, nay thì biết đâu lại dám rơi vào cái thế bắt buộc phải hiệp lực với...Việt cộng chống bá quyền Trung cộng (bất cứ một nổ lực nào chống Trung cộng trong lúc bọn khát máu này đánh nhau với đệ tử là Việt cộng, rất dễ bị bọn Việt gian tay sai chụp mũ là bắt tay với Việt cộng). Chỉ có một lãnh tụ sáng suốt, đại diện cho toàn thể đồng hương hải ngoại, đề ra một quyết sách, trưng cầu dân ý, mới giải quyết được vấn nạn đau đầu này, mà không bị lịch sử phê phán là bắt tay với Việt cộng. Không có lãnh đạo thì rất khó thực hiện thành công các cuộc tranh đấu phức tạp như trên (vẫn còn đó kinh nghiệm máu xương việc cộng sản lúc yếu thì kêu gọi quốc gia hợp tác chống Pháp, xong rồi bọn chúng ra tay tiêu diệt các lược lượng quốc gia để độc quyền thống trị dân ta)

Chúng ta hiện nay có hàng ngàn chứ không phải hàng trăm tổ chức hoặc liên minh có cùng mục đích chống độc tài cộng sản đem lại tự do dân chủ cho đồng bào trong nước, mạnh ai nấy ra tuyên cáo, rõ ràng không có sức mạnh tổng hợp. Có nhớ đệ nhất cộng hòa đã kết hợp được quân đội các giáo phái trở thành quân đội quốc gia hay không? Nếu có lãnh tụ thì chắc chắn có thể kết hợp tất cả các hội đoàn thành một sức mạnh tổng thể, cùng một chí hướng, cùng một tinh thần, cùng một kỷ luật giống như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày nào.

Ðức Ðạt Lai Lạt Ma là một thí dụ về lãnh tụ cộng đồng Tây Tạng lưu vong, ông đi đến đâu đều được các quốc gia kính trọng. Tại sao chúng ta không có được một lãnh tụ như vậy, trong khi chúng ta đã làm được một điều kỳ diệu là ngăn cản không để lá cờ đỏ khát máu xuất hiện bất cứ nơi nào tại Hoa Kỳ, tại Canada hoặc tại Úc châu. Ðặc biệt hơn nữa là "cộng đồng người Việt quốc gia" tại Pháp hầu như đã "đồng hóa" được cái "cộng đồng người Việt thiên tả" mà Nguyễn Dy Niên, cựu bộ trưởng ngoại giao Việt cộng gọi là "Binh chủng đặc biệt" vốn có cảm tình với Việt cộng trước năm 1975 tại Paris. Sau ngày Việt Nam bị nhuộm đỏ cả nước, đồng bào vượt biên đến Pháp khá nhiều, bọn thiên tả mới sáng mắt ra, rồi lần lần chịu phép, và cờ máu tự nhiên không còn nữa, chỉ thấy rừng cờ vàng xuất hiện trong các cuộc tranh đấu và các ngày lễ lớn. Mặc dù Việt cộng là thành viên của Liên Hiệp Quốc, nhưng tại hầu hết các nước tự do, thì cờ vàng lại làm bá chủ, điều kỳ diệu này chỉ có chúng ta thực hiện được so với các cộng đồng ngoại quốc cùng cảnh ngộ mất nước như chúng ta. Trong cuộc Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế hàng năm tại New York, cờ Ðài Loan xuất hiện yếu ớt bên cạnh rừng cờ Trung cộng, trong khi không có một lá cờ máu nào của Việt cộng được phép xuất hiện ngoại trừ rừng cờ vàng của cộng đồng Việt Nam. Chính nghỉa quốc gia đã thắng lớn tại hải ngoại, nơi nào có cờ vàng thì không có cờ đỏ, nơi nào mà cờ đỏ lén lút xuất hiện thì trước sau cũng bị dẹp. Tại sao tinh thần quốc gia lên cao như vậy, mà chúng ta không có lãnh tụ biết phát huy sức mạnh này để giúp nước?

Không thể đòi hỏi một lãnh tụ phải pure, phải hoàn toàn perfect được, vì nhân vô thập toàn mà. Chúng ta chỉ cần có một lãnh tụ có uy tín, có khả năng, và một tình thần quốc gia vững chắc là được rồi. Một tổ chức có uy tín, đại diện thống nhất cho người Việt tại Hoa Kỳ là khả hữu. Nhưng ai là người dám đứng ra nhận lãnh trách nhiệm trọng đại này đây?

Ðã đến lúc các tổ chức cộng đồng, các đảng phái chính trị, các hội đoàn đoàn thể, và các nhân sĩ cần phải ngồi lại với nhau, để tìm hay bầu ra một lãnh tụ. Vị lãnh tụ này sẽ lập ra một ban tham mưu hay một ban chấp hành theo luật lệ sở tại, nếu không tiện mang danh xưng nội các. Nếu chúng có một lãnh tụ có tinh thần quốc gia, có uy tín trong cộng đồng và chính giới Hoa Kỳ, thì sẻ giải quyết được hàng núi công việc của chúng ta tại hải ngoại. Thí dụ kêu gọi toàn thể đồng hương ghi danh và đi bỏ phiếu, đại diện cộng đồng Việt Nam hải ngoại yêu cầu Liên Hiệp Quốc áp lực Hà Nội ngưng đàn áp đồng bào trong nước, kêu gọi liên tục với Liên Hiệp Quốc về vấn đề Trung cộng âm mưu chiến biển đông làm của riêng, lên tiếng kêu gọi các nơi về Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế hàng năm do cộng đồng New York đứng ra tổ chức, kêu gọi không du lịch tại Lâm Ðồng và Ðăk Nông để tránh bị ung thư bauxite, hoặc xin chính quyền tiểu bang trợ cấp sinh hoạt cho các trung tâm sinh hoạt cộng đồng giống như của bà Mai Công ở Quận Cam một năm được cấp hàng trăm ngàn Mỹ kim...(Hiện nay các tổ chức cộng đồng người Việt quốc gia hầu như không xin fund được, mà chỉ có các hội cao niên mới có chút ít fund từ liên bang).

Có rất nhiều vấn đề cộng đồng mà chỉ có một lãnh tụ xuất sắc và một ban tham mưu tài giỏi mới làm được hoặc giải quyết được. Không thể nói rằng 34 năm qua chúng ta vẫn sống, vẫn làm nhiều việc có ích cho quê hương và đồng bào bên nhà mà, đâu cần có lãnh tụ đâu. Nên nhớ, chúng ta là cộng đồng tỵ nạn, vì tự do nên mới lưu lạc ra xứ người, chúng ta đã từng quyên góp cho kháng chiến, đã từng quyên góp cho thương phế binh, đã từng đi biểu tình "Giương Ngọn Cờ Vàng Hạ Cờ Máu" khắp nơi trên thế giới. Nhưng đấu tranh mà không có lãnh tụ thì sức mạnh kia bị chia năm xẻ bảy vì đánh tùm lum, giống như đánh vào không khí, như những vết cào sướt vô hại trên lưng kẻ thù, còn tổng hợp được sức mạnh sẽ như mủi dao toàn lực đâm thẳng vào tim địch.

Cứ nhìn cộng đồng Do Thái tại Hoa Kỳ mà biết được sức mạnh của họ, tại sao mà Hoa Kỳ phải hết lòng bảo vệ Do Thái tại Trung Ðông, vì người Mỹ gốc Do Thái ảnh hưởng nhiều lãnh vực tài chánh và ngân hàng của Hoa Kỳ, và lãnh đạo cả Hollywood nữa.

Cộng đồng chúng ta mạnh sẽ làm các dân cử địa phương áp lực được chính phủ trung ương thật sự giúp chúng ta, chứ không phải hứa miệng để lấy phiếu trong các kỳ bầu cử. Cộng đồng chúng ta có lãnh đạo uy tín thì chắc chắn cựu Tổng Thống Bush đã phải can thiệp không ít thì nhiều cho các nhà tranh đấu được thả ra khỏi ngục tù cộng sản. Nên nhớ một năm Hoa Kỳ viện trợ cho Việt Nam hơn một tỷ đô, viện trợ hoặc huấn luyện cho tất cả các sinh hoạt mang tính quốc gia tại Việt Nam về đủ môi phương diện, kinh tế, văn hoá giáo dục, y tế, hành chánh, quốc hội, và cả quốc phòng nữa. Nội việc giao thương với Hoa Kỳ, nhập siêu của Việt Nam năm 2008 đã lên đến hơn 10 tỷ đô. Hoa Kỳ hiện nay là nước đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, và Hoa Kỳ là nơi mà Việt Nam xuất cảng nhiều nhất so với các quốc gia khác, có thể áp lực một số vấn đề nhân đạo được chứ?

Chúng tôi xin nêu một thí dụ về sức mạnh của cộng đồng nếu chúng ta có một lãnh tụ có tầm cở, để yêu cầu Tổng Thống Obama áp lực Việt Nam thả Luật sư Lê Thị Công Nhân, Luật sư Nguyễn Văn Ðài, và Linh Mục Nguyễn Văn Lý, nếu không thì toàn thể cộng đồng chúng tôi sẽ bỏ phiếu cho đảng cộng hòa vào kỳ bỏ phiếu tới. Nếu chúng ta có một lãnh tụ có khả năng, được cộng đồng thương yêu và tin tưởng, thì khi vị này lên tiếng kêu gọi về một nguyện vọng chính đáng có lợi cho chúng ta, hay cho đồng bào ở quốc nội, thì chắc chắn đồng hương sẽ ũng hộ nguyện vọng này hết mình như đã làm trong quá khứ. Chúng ta sẽ diễn tập một lần về việc "chỉ bỏ phiếu cho một đảng thì sẽ biết hiệu quả ngay". Hảy tưởng tượng nguyên cả đảng dân chủ không có một lá phiếu nào của người Việt vào năm 2010, thì liệu bà Loretta Sanchez hay ông Lou Correa có hộc tốc bay về Washington DC vấn tội ông Obama hay không? Theo tình hình hiện nay, chúng ta chưa thể làm điều này, vì không có một lãnh tụ tầm cở có thể ban hiệu lệnh thiên hạ, nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm ra người này.

Người làm việc lớn thì thường bỏ qua những tiểu tiết, kẻ làm việc nhỏ thì lại chú ý những tiểu tiết này để chống phá, nên chúng ta chưa có được một lãnh tụ. Nhưng ra ngõ gặp anh hùng là tục ngữ nói về truyền thống bất khuất của dân tộc ta, khi bị trị tự nhiên xuất hiện vị cứu tinh của dân tộc. Canh khuya không dám dang chân ngủ - Vì sợ sơn hà xã tắc xiêu. Hai câu thơ khẩu khí này của Lý Công Uẫn lúc làm chú tiểu trong chùa, sau này trở thành vua, lãnh đạo dân chúng đánh tan quân Tống xâm lược nước ta. Anh hùng xuất thiếu niên, vị lãnh tụ của cộng đồng Việt Nam có thể là lớp người trẻ, cũng có thể là thế hệ thứ nhất, vị này sẽ làm các công việc chắc chắn lớn hơn và không dẫm chân lên các công việc mà các cộng đồng địa phương đang làm, nhưng người này có uy tín thì sẽ có khả năng hợp nhất cộng đồng và đoàn thể lại không còn đấu đá nhau nữa, hợp nhất lại các tổ chức quân đội, không để tại một địa phương mà có đến hai lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 tháng 6 như tại San Jose nữa. Vị lãnh tụ này chắc sẽ có khả năng hoà giải những bất đồng, và thống nhất sức mạnh tập thể để làm các công việc chung, giống như Ðinh Bộ Lĩnh ngày xưa thu phục 12 sứ quân vậy.

Hãy lấy vụ nộp hồ sơ hải đảo cho Liên Hiệp Quốc tháng 5 vừa rồi mà làm tiền đề cho việc tìm người lãnh đạo. Ðây là một vấn đề serious và có thể, chứ không phải là không tưởng. Hãy nhớ lại gần 50,000 đồng hương già trẻ lớn bé ngồi lại với nhau tay vẫy cờ vàng trong một đêm cao điểm đấu tranh 53 ngày chống cờ máu trong vụ Trần Trường năm 1999 tại Bolsa, Little Saigon, thủ phủ của người Việt lưu vong. Hãy nhớ hàng triệu Mỹ kim mà đồng hương nức lòng quyên góp cho thương phế binh trong những đại nhạc hội gây quỹ hàng năm. Hãy nhớ hàng chục triệu đô la mà đồng hương quyên góp cho kháng chiến, dầu cho thực chất cuộc kháng chiến này dzõm và để lại quá nhiều tai tiếng, nhưng đây là một quyết tâm đoàn kết vô bờ bến, vì dân vì nước của người Việt quốc gia mà nhiều đời sau sẽ còn nhắc nhở.

Bài này chúng tôi viết ra hoàn toàn không đề cao người nào, chỉ trích ai, không lobby ai, chỉ nêu một số thí dụ có thực đã xảy ra trong quá khứ của cộng đồng Việt Nam mà ai cũng biết rõ ràng, mong quý vị đóng góp ý kiến để tìm ra một người lãnh đạo chung, có như thế chúng mới không phải hy sinh nhiều thời gian, nhiều công sức mà chỉ đạt được những kết quả nhỏ nhoi.


Song Hoài


23 August 2009

Tôn giáo chính trị hóa: Vì chính trị muốn kiểm soát tôn giáo


Ðây là một thử thách của những vị lãnh đạo giáo hội Phật Giáo Việt Nam, xem họ có răm rắp tuân lệnh của chính quyền hay không. Những người lãnh đạo giáo hội này, ở trung ương và ở tỉnh Lâm Ðồng, sẽ chịu trách nhiệm trước lịch sử dân tộc và lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam chưa bao giờ có một chính quyền nào lại ra lệnh cho các chùa phải theo một pháp môn nào hoặc phải bác bỏ một pháp môn khác. Nếu chuyện này xảy ra trong thế kỷ 21 thì những người lãnh đạo các tự viện và các tổ chức Phật Giáo ở Việt Nam phải lên tiếng phản đối.

Ngô Nhân Dụng


Ở một nước bình thường khi người dân bị cướp đất thì họ phải làm gì? Họ đưa đơn kiện ra trước tòa cho pháp luật khu xử. Bình thường, những người bị cướp đất không họp nhau lại để ngồi thiền hay dâng lễ và cầu nguyện.

Ở Việt Nam, dân giáo xứ Thái Hà đã thắp nến cầu nguyện khi muốn đòi lại đất đai của Nhà Chung bị chính quyền chiếm giao cho người khác khai thác. Tín hữu Công Giáo khắp nơi đã cầu nguyện để đòi cho giáo dân Tam Tòa được quyền dựng Thánh Giá lại trên khu đất nhà thờ cũ. Bởi vì ở Việt Nam người dân không được phép sống bình thường. Các tăng ni trẻ ở tu viện Bát Nhã ngồi xuống niệm Phật và thiền định khi bị đuổi ra khỏi những ngôi nhà mà chính vì có mặt họ nên đồng bào Phật tử khắp thế giới mới góp công góp của tạo mãi đất rồi xây dựng lên các tu viện, thiền đường. Cũng bởi vì ở Việt Nam người dân không được phép sống bình thường. Mươi ngày nữa, gần 400 tăng ni này sẽ bị công an đến bắt từng người rời khỏi các thiền đường trở về quê quán, mà sau đó họ có thể bị cấm không được đi tu chung một chỗ nữa. Họ sẽ tiếp tục thiền định và cầu nguyện cho một ngày dân Việt Nam được sống cuộc đời bình thường. Và sẽ đến lúc mọi người Việt Nam tỉnh ra, thấy mình đang sống thiếu tự do.

Người ta phản ứng trước những hành động đàn áp, bất công bằng cách cầu nguyện thay vì đi thưa kiện; vì ở nước Việt Nam người dân thường không tin nơi tòa án và luật lệ. Không thể đi kiện vì biết trước thế nào tòa án cũng đứng về phe kẻ mạnh, những kẻ có tiền và có quyền. Nhất là khi những kẻ chiếm đoạt đất đai và cấm đoán tu hành ở nơi mình cư trú chính là nhà nước Cộng Sản với bộ máy cán bộ tôn giáo của họ. Vì thế, các tín hữu Công Giáo và các tăng ni Phật Giáo chỉ còn một cách phản ứng là dùng niềm tin thiêng liêng của họ để đối phó với bạo lực. Sinh hoạt tôn giáo đã biến thành hành động chính trị. Chính vì guồng máy cai trị đã can thiệp vào đời sống tôn giáo.

Các đảng Cộng Sản xưa nay đều can thiệp vào tôn giáo, vì từ đầu thế kỷ 20 chủ nghĩa Cộng Sản đã được Lenin, Stalin biến thành một thứ tín ngưỡng thế tục với tham vọng thay thế các tôn giáo. Trong cuốn lịch sử triết học Tây phương của ông, Bertrand Russell (một người không có thiện cảm với các tôn giáo) đã mô tả Ðệ Tam Quốc Tế như một tổ chức giáo hội, với tòa thánh (Ðiện Kremlin), với giáo điều (chủ nghĩa Marx-Lenin), các vị thánh để thờ (Marx, Engels, sau này thêm những Kim Nhật Thành, Lê Văn Tám,...), một giáo chủ (Stalin) và hàng giáo sĩ thừa sai (cán bộ cộng sản), họ cũng hứa hẹn một thiên đường (tiến tới chủ nghĩa xã hội), và đe dọa tín đồ bằng những ác quỷ và địa ngục (thế giới tư bản). Niềm tin thế tục cộng sản đã sụp đổ trước bức tường Berlin, vì lý do, như Ernest Gellner mô tả, “Khi các đồng chí cốt cán (nomenklaura) không đem nhau ra xử bắn nữa mà bắt đầu đút tiền mua chuộc nhau, thì niềm tin biến mất.”

Khi tín ngưỡng cộng sản sụp đổ hàng loạt ở Nga và Ðông Âu, không một “tín đồ” nào thấy tiếc rẻ, trừ ở những xứ mà họ còn cố đấm ăn xôi được, như ở Việt Nam, Trung Quốc, Cuba, Bắc Hàn. Nhưng dù còn bám được quyền lực, họ không những đã mất niềm tin mà còn mang trong lòng một mối hận vì mặc cảm đối thua kém mọi tôn giáo khác. Vì vậy, họ tiếp tục duy trì những xiềng xích đã trói buộc các tôn giáo khác, những định chế, luật lệ do ông Stalin dựng lên vẫn còn được giữ lại. Ðồng bào Công Giáo ở Thái Hà, ở Tam Tòa, các tăng ni ở tu viện Bát Nhã là nạn nhân của guồng máy cai quản đó.

Ông Trương Hải Cường trong Trung Tâm Nghiên Cứu Tôn Giáo thuộc Ðại Học Hà Nội mới giải thích những xung đột giữa nhà nước cộng sản và giáo dân Thái Hà, Tam Tòa bằng hai nguyên nhân. Ông gọi tên là những “di sản của lịch sử và hệ lụy tâm lý, mặc cảm.” Nguyên nhân lịch sử nào? Ðó chính là sự kiện đảng Cộng Sản cướp được chính quyền ở nước ta. Và hệ lụy tâm lý nào? Ðó chính là do tham vọng của đảng Cộng Sản muốn thay thế các tôn giáo bằng một niềm tin thế tục của họ, nhưng hoàn toàn thất bại.

Một di sản của lịch sử là cơ quan nhà nước mang tên “Ban Tôn Giáo Chính phủ.” Khi Hòa Thượng Nhất Hạnh gặp ông Nguyễn Minh Triết năm trước, đưa đề nghị giải tán Ban Tôn Giáo Chính Phủ, nhà sư đã giải thích rằng trên thế giới không có chính phủ nào can thiệp vào các sinh hoạt tôn giáo như vậy. Tại sao nhà nước phải có một bộ phận quản lý các tôn giáo, nếu không phải vì đảng cầm quyền muốn kiểm soát tất cả mọi sinh hoạt trong xã hội công dân?

Mà gần đây họ can thiệp một cách lộ liễu, qua một văn thư ra lệnh cho Giáo Hội Phật giáo Việt Nam phải đuổi gần 400 vị tăng ni ra khỏi tu viện Bát Nhã. Giáo hội này do đảng Cộng Sản lập ra để kiểm soát từ trên xuống dưới. Gần đây họ đã ra lệnh cách chức Thầy Lê Mạnh Thát không cho làm viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Vạn Hạnh. Ông Lê Mạnh Thát đã phải cởi áo nhà tu dù ông vẫn tiếp tục giữ thanh quy, giới luật của một tỳ kheo, chỉ mong được yên ổn làm công việc nghiên cứu lịch sử Phật Giáo và lịch sử dân tộc Việt Nam. Nhưng ông vẫn không được đảng Cộng Sản cho ngồi yên làm việc.

Ðến việc ra lệnh cho giáo hội Phật Giáo giải tán tăng đoàn ở Bát Nhã thì sự can thiệp của Ban Tôn Giáo Chính Phủ là một hành động sỉ nhục cho cả ban lãnh đạo của giáo hội đó. Hành động này sẽ để lại một vết nhơ trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam.

Tại sao một cơ quan thuộc chính phủ lại có quyền ra lệnh cho một tổ chức giáo hội làm những việc trong phạm vi thuần túy sinh hoạt tôn gió của họ? Ðó chính là một thứ “di sản lịch sử” mà ông Trương Hải Cường không thể không biết: Ðảng Cộng Sản Việt Nam vẫn giữ di sản của chế độ Stalin, coi đảng có quyền kiểm soát tất cả mọi sinh hoạt động của người dân bị trị. Ðối với một đảng Cộng Sản, việc chiếm đất nhà thờ, đất nhà chùa không đủ chứng tỏ uy quyền của họ. Họ còn muốn kiểm soát việc tuyển sinh của các nhà dòng, các tu viện, kiểm soát việc cho các linh mục nào được thụ phong, và kiểm soát cả những pháp môn mà người theo đạo Phật được tu học.

Văn thư của Ban Tôn Giáo Chính Phủ gửi giáo hội Phật Giáo Việt Nam không những là một mệnh lệnh bảo những người lãnh đạo giáo hội này phải giải tán các tăng ni ở Bát Nhã, ấn định ngày giờ rõ rệt, mà còn lên mặt dạy dỗ giáo hội này rằng pháp môn tu tập của tăng ni Bát Nhã là “bất hợp pháp” nữa!

Trong đạo Phật, hay trong bất cứ tôn giáo nào, thế nào là một pháp môn bất hợp pháp? Chỉ có những người lãnh đạo các tôn giáo đó có quyền phán xét một đường lối tu trì là có phù hợp với giáo lý của mình hay không. Mà trong đạo Phật, với “tám vạn bốn ngàn” pháp môn, và mỗi thời đại đều mở ra những cánh cửa mới phù hợp với căn cơ của chúng sinh đang sống. Một dòng tu Công Giáo, Tin Lành, hay một pháp môn Phật Giáo chỉ có thể gọi là “bất hợp pháp” nếu theo pháp môn đó sẽ làm những hành động vi phạm luật pháp thế tục đang thi hành. Các tăng ni Bát Nhã có bị “đuổi nhà” vì luật hộ khẩu lỗi thời tước đoạt quyền công dân và quyền làm người, nhưng cũng không ai có quyền lên án họ đang theo một pháp môn “bất hợp pháp” được! Nhất là lời phê phán đó lại phát xuất từ một cái ban lập ra để cai quản các tôn giáo mà không biết, không hiểu gì về tôn giáo cả!

Ban Tôn Giáo Chính Phủ Hà Nội có quyền bắt buộc Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam phải giải tán một dòng tu hay không? Nếu có những nữ tu Công Giáo chỉ sống khổ hạnh, lo việc cầu kinh và làm việc từ thiện, mà bị chính quyền ghét, thì họ có quyền phán là dòng tu đó “bất hợp pháp” rồi ra lệnh giải tán hay không? Liệu Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam có im lặng và răm rắp tuân lệnh hay không?

Ðây là một thử thách của những vị lãnh đạo giáo hội Phật Giáo Việt Nam, xem họ có răm rắp tuân lệnh của chính quyền hay không. Những người lãnh đạo giáo hội này, ở trung ương và ở tỉnh Lâm Ðồng, sẽ chịu trách nhiệm trước lịch sử dân tộc và lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam chưa bao giờ có một chính quyền nào lại ra lệnh cho các chùa phải theo một pháp môn nào hoặc phải bác bỏ một pháp môn khác. Nếu chuyện này xảy ra trong thế kỷ 21 thì những người lãnh đạo các tự viện và các tổ chức Phật Giáo ở Việt Nam phải lên tiếng phản đối. Nếu không, họ có lỗi với các Phật tử và có lỗi với tất cả đồng bào có tín ngưỡng, vì đã đồng lõa với một chế độ muốn chính trị hóa cả các sinh hoạt tín ngưỡng để bảo vệ quyền hành độc tài tham nhũng.


Ngô Nhân Dụng


19/8: ngày cách mạng hay cách miệng?


Chính thứ vi trùng chủ nghĩa Cộng sản ngoại lai do Hồ Chí Minh tình nguyện đem vào Việt Nam, theo lệnh của các hai đế quốc Nga Xô và Trung Cộng từ 1930 đã gây ra không biết bao nhiêu tai hoạ cho đất nước và dân tộc trong hai Cuộc chiến tranh đẫm máu mà người Cộng sản ngày nay vẫn coi như không đáng kể đối với hàng chục triệu sinh mạng người Việt Nam bị huỷ diệt.

Phạm Trần


Tại sao nhiều người coi thường Ngày 19-8-1945?

Người Cộng sản Việt Nam có thói quen nói một tấc lên đến Trời nên dù biết mình nói dối mà vẫn nói như giữa chợ không người. Đó chính là trường hợp của một số cán bộ ngành Tuyên truyền khi họ vung tay quá trán để viết về Cuộc Cách mạng Tháng Tám vào dịp kỷ niệm lần thứ 64 năm 2009.

Hãy nghe Vũ Duy Thông rêu rao: “Nếu không có Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sẽ không có nước Việt Nam như ngày nay, đó là điều không thể phủ nhận…Ngày nay, vẫn còn những người cố tình hạ thấp ý nghĩa lịch sử thậm chí xuyên tạc, đưa ra những luận điểm không có căn cứ về Cách mạng Tháng Tám. Đó không phải là những “nhà nghiên cứu lịch sử” ngây thơ hoặc sai lầm không cố ý. Họ là những người cố tình để các thế hệ không trải qua cách mạng, không trải qua chiến tranh hiểu sai lệch lịch sử, hiểu sai về Chủ tịch Hồ Chí Minh để từ đó xa rời lý tưởng, xa rời truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc. (Báo điện tử ĐCSVN, 17-8-2009)

Trước hết, tại sao không hỏi lại như thế này: Nếu không có Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam thì đất nước Việt Nam đâu có lâm vào cảnh chiến tranh nồi da, xáo thịt suốt 30 năm trường và làm gì mà dân tộc phải sống lầm than và chậm tiến như ngày nay?

Nhưng tại sao cho đến bây giờ, 64 năm sau Cuộc Cách mạng mùa Thu mà Hồ Chí Minh và đảng CSVN còn bị lên án đã phản bội những hy sinh xương máu của nhiều tầng lớp nhân dân đã hiến dâng cho cuộc Cách mạng ấy ?

Về điểm này, người Cộng sản hãy tự xét xem nếu Hồ Chí Minh giữ lời hứa của Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới vào buổi trưa ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”, thì người dân đâu có mất tự do ở miền Bắc từ 1954 đến 1975 và trên cả nước từ 1975 đến bây giờ?

Vũ Duy Thông và người Cộng sản Việt Nam cũng nên nhớ rằng Hồ Chí Minh còn nói với nhân dân qua loa phóng thanh sau buổi lễ Tuyên bố độc lập rằng: "Giành được Độc lập đã khó nhưng giữ vững Độc lập lại càng khó hơn. Tôi mong rằng đồng bào hãy gắn bó đoàn kết xung quanh Chính phủ để bảo vệ nền Độc lập mà nhân dân đã phải đổ biết bao xương máu vừa giành lại được" (Tài liệu lưu trữ của đảng CSVN).

Chính vì những lời nói tưởng như thật lòng này của họ Hồ mà các Đảng phái quốc gia và những Nhà ái quốc lúc bấy giờ như các cụ Nguyễn Hải Thần (Phó Chủ tịch), Hùynh Thúc Kháng (Bộ trưởng Nội vụ), Cựu Hoàng Bảo Đại Vĩnh Thụy (Đoàn Cố vấn tối cao) và hai Lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) là Nguyễn Tường Tam (Bộ trưởng Ngoại giao) và Vũ Hồng Khanh (Phó Chủ tịch Kháng chiến Uỷ viên hội) đã tham gia Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến ra đời ngày 2-3-1946.

Nhưng đến ngày 3/11/1946 thì Chính phủ này bị Hồ Chí Minh lũng đoạn thay thế bằng Chính phủ mới do các phần tử Cộng sản khống chế. Người duy nhất còn lại là Cụ Hùynh Thúc Kháng trong chức Bộ trưởng Nội vụ, nhưng đến ngày 21/4/1047 thì Cụ từ trần. Hồ Chí Minh đặt ông Phan Kế Toại làm Quyền Bộ trưởng thay thế Cụ từ tháng 11/1947.

Cũng nên biết ông Phan Kế Toại, nguyên là Khâm sai Bắc Bộ của Chính phủ Trần Trọng Kim, nhưng sau Cách mạng tháng Tám đã quay sang hợp tác với Hồ Chí Minh và trở thành Phó Thủ tướng của Chính phủ Cộng sản miền Bắc trong nhiệm kỳ 1955-1961.

Tại sao ông Phan Kế Toại được Hồ Chí Minh hậu đãi như thế ? Tiểu sử chính thức của ông viết: “Năm 1944, lúc còn làm Tổng đốc Thái Bình, Phan Kế Toại đã ngầm ủng hộ Việt Minh bằng cách trao một tín phiếu 500 đồng bạc Đông Dương qua ông Nguyễn Công Liệu là một cán bộ Việt Minh”.

Lý do Cựu hoàng Bảo Đại bị loại khỏi vai trò Cố vấn bù nhìn không khiến ai ngạc nhiên, nhưng hai Lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh đã rút lui vì thấy Hồ Chí Minh không thật lòng “đoàn kết” như đã nói mà còn chủ mưu ra tay ruồng bố, sát hại các chiến sĩ Quốc gia không Cộng sản nói chung và đảng viên VNQDĐ nói riêng.

Thế là “liên hiệp Quốc-Cộng” tan rã từ đó, mở đầu cho giai đoạn chiến tranh kéo dài đen tối cho dân tộc do đảng CSVN của Hồ Chí Minh chủ trương dưới danh nghĩa chống thực dân Pháp và ngụy trang “chống Mỹ cứ nước” để xâm lăng miền Nam Việt Nam.


Ai chọn Đảng CSVN?

Vậy mà cán bộ Tuyên giáo Vũ Duy Thông vẫn có thể bẻ cong lịch sử qua lập luận: “Đúng là đất nước ta phải trải qua hơn 30 năm hao người tốn của để bảo vệ nền độc lập non trẻ. Những cuộc chiến tranh ấy đã kìm hãm sự phát triển của đất nước trong nhiều thập kỷ. Nhưng cần hiểu rằng, chúng ta đã cố gắng hết sức để mong không có các cuộc chiến tranh đó nhưng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta nhân nhượng. Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới”. Phải chấp nhận các cuộc chiến tranh là nằm ngoài ý muốn của chúng ta. Nhưng tuy trải qua vô vàn hi sinh gian khổ, chiến thắng trong các cuộc chiến tranh đó lại là tiền đề cho công cuộc thoát đói nghèo, đổi mới, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đã lựa chọn”.

Làm gì có chuyện “nhân dân ta đã lựa chọn” đi “theo con đường chủ nghĩa xã hội” Cộng sản?

Phải chăng vì tin vào những lời đường mật phỉnh gạt của đàng CSVN mà nhân dân miền Bắc, sau hơn 20 năm lao động gian khổ từ 1954 đến 1975, chỉ còn da bọc xương và những mái nhà xiêu vẹo, giậu đổ, bìm leo?

Chính thứ vi trùng chủ nghĩa Cộng sản ngoại lai do Hồ Chí Minh tình nguyện đem vào Việt Nam, theo lệnh của các hai đế quốc Nga Xô và Trung Cộng từ 1930 đã gây ra không biết bao nhiêu tai hoạ cho đất nước và dân tộc trong hai Cuộc chiến tranh đẫm máu mà người Cộng sản ngày nay vẫn coi như không đáng kể đối với hàng chục triệu sinh mạng người Việt Nam bị huỷ diệt.

Cũng phải kể đến những oan hồn của mọi thành phần người Việt vẫn còn vất vưởng đâu đó trên khắp các miền đất nước từ các chiến trường Việt Bắc đến Điện Biên Phủ, từ trong các trại tù Cộng sản giam người Quốc gia ở miền Bắc trong thời kỳ chiến tranh Pháp-Việt cho đến các trại tù sắt máu được ngụy trang “Cải tạo” để đày đoạ người miển Nam từ Nam ra Bắc sau 1975.

Cũng phải kể đến hàng vạn mạng người khác bị chết oan trong Cuộc Cải cách Ruộng đất của đảng CSVN từ 1953 đến 1960 cho đến những xác chết của trên 3,000 con người nằm phơi khô hay bị cột cổ, trói tay đâm cho chết rồi lấp vội vã trong các nấm mồ tập thể ở Huế trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968. Sẽ thiếu sót và lỗi đạo nếu chúng ta bỏ quên không nói đến số phận của hàng chục ngàn nạn nhân của chế độ đã chết tức tưởi dưới lòng Biển Đông hay trên đường vượt biên tìm tự do từ sau năm 1975.

Những hình ảnh bi thảm này, tuy cũ nhưng vẫn như còn mới nguyên và càng hiện ra rõ hơn mỗi lần thấy người Cộng sản thi đua tô vẽ cho những chiến thắng mà họ gọi là “vẻ vang” hay “hào hùng” của đảng từ Cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay.

Đó chính là lý do tại sao, 64 năm sau Cuộc cách mạng ấy vẫn có rất nhiều người Việt Nam muốn “hạ thấp ý nghĩa lịch sử” của nó và muốn quên đi những lời hứa suông và vô giá trị của Hồ Chí Minh ở Quảng trường Ba Đình.

Tại sao ?

Bởi vì nếu người Cộng sản chịu sờ lên gáy xem họ đã làm được gì cho đất nước từ sau ngày chiếm được miền Nam để gọi là “ thu đất nước về một mối”, quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì họ sẽ thất vọng ê chề.

Trước hết hãy nghe Vũ Duy Thông hồ hởi: “Chưa phải là tất cả nhưng chỉ sau 20 năm, nhiều điều cách đây ít năm còn là ước mơ, nay đã thành hiện thực: từ một nước thiếu gạo nay đã trở thành quốc gia xuất khẩu gạo đồng thời đứng trong tốp đầu những nước xuất khẩu cà phê, hạt tiêu, hạt điều, mủ cao su, cá và tôm nước ngọt… của thế giới. Từ một quốc gia phải nhập khẩu 100% dầu mỏ, nay ta đã có dầu thô xuất khẩu và xăng sản xuất trong nước. Từ một quốc gia hầu như trắng về điện nay đã có mặt trong những nước có sản lượng điện lớn. Việt Nam cũng đang trên đường để tự túc được xi măng, phân bón, thép, vải, quần áo may sẵn và nhiều hàng hóa khác. Đời sống của người dân tuy còn khó khăn nhưng đã được cải thiện đáng kể. Việt Nam được Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế có uy tín đánh giá cao về xóa đói giảm nghèo, giáo dục, y tế, bình đẳng xã hội”.

Quả thực là đời sống của đa số người dân có khá hơn trong thời kỳ còn chiến tranh, còn kinh tế bao cấp, còn cảnh xếp hàng mua từng hạt muối, nhưng Vũ Duy Thông và những người làm công tác tuyên truyền đã cố tình quên đi những hình ảnh xấu xa, nhơ nhuốc của không ít cán bộ, đảng viên đang sống mất phẩm chất, tham nhũng, thối nát, hành dân là chính, tự diễn biến, tự chuyển hóa để không còn là “đầy tớ” của dân nữa.

Đó cũng là lý do tại sao không còn ai, ngoại trừ các đảng viên có chức, có quyền vẫn còn muốn tô son, điểm phấn cho Cuộc Cách mạng Tháng Tám và ngày Lễ Độc lập 2-9 để che đi cái hố chia cách giàu-nghèo giữa cán bộ và người dân và giữa thành phố với thôn quê.

Điển hình cho “màn kịch ” này đã xuất hiện trong bài bình luận của báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của đảng vào đúng ngày 19-08-2009: “Thành quả vĩ đại và những bài học lịch sử vô giá của Cách mạng Tháng Tám trở thành hành trang, thành động lực thôi thúc toàn dân và toàn quân ta, dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiến hành các cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ trong suốt 30 năm, đánh thắng các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược; lập nên những chiến công hiển hách mà đỉnh cao là Chiến thắng vĩ đại Ðiện Biên Phủ năm 1954 và Ðại thắng Mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội . Tinh thần và ý chí quật cường của Cách mạng Tháng Tám tiếp tục soi đường, cổ vũ nhân dân ta đạp bằng mọi khó khăn, thử thách để giành thắng lợi rất to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới. Ðất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Ðồng bào ta có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc. Uy tín và vị thế nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế”.

Rất tiếc là báo Nhân Dân lại quên không nói cho mọi người hay rằng khi đảng cố gắng “đưa cả nước đi lên xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội” thì một bộ phận không nhỏ người dân lại bị nghèo hơn và tụt hậu thêm so với các dân tộc láng giềng.

Vậy đó có phải là bài học quá đắt cho cuộc Cách mạng Tháng Tám, hay vì người Cộng sản đã làm hỏng cuộc cách mạng ấy mà đất nước ngày nay mới ra nông nỗi này ?


Phạm Trần
19/08/2009


22 August 2009

Cộng Sản Hại Người Bằng Chất Ðộc


Nếu bảo rằng, Việt cộng và Trung cộng đang tiến hành một cuộc chiến vi trùng để hại người thì có thể bị cho là quá đáng. Nhưng nếu bảo rằng sản phẩm "made in China" và "made in Vietnam" có chứa chất độc thì quá hiển nhiên. Chúng ta, những người chống cộng quyết tâm phải khử trừ bọn cộng sản để cứu nguy nhân loại phải biết cách tự vệ. Cách bảo vệ hữu hiệu nhất cho bản thân và gia đình là không dùng bất cứ sản phẩm nào nhập cảng từ Trung Quốc hay từ Việt Nam.

Lê Văn Bảy


Thời gian gần đây, những người Việt tỵ nạn cộng sản bị đặt trong tình trạng là nạn nhân của cuộc ám hại bằng chất độc trong thức ăn do Việt cộng và Trung cộng tiến hành. Mỗi ngày người ta tìm thấy trong thức ăn và thức uống có chứa các chất độc, có hại cho cơ thể và não bộ thần kinh. Ðặc biệt là những thức ăn thức uống này được nhắm đến những người tỵ nạn cộng sản và người dân tại Việt Nam.

Những tin tức này đến từ đâu? Bao nhiêu phần trăm đáng tin cậy? Chiến tranh vi trùng chăng? Ðịch ở đâu? Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra chưa có câu trả lời rõ ràng.

Bằng con mắt và sự phán đoán của một người bình thường, chúng ta có thể khám phá kẻ thù của mỗi chúng ta đã ở rất gần và đang ám hại chúng ta bằng võ khí vi rùng. Do sự bất cẩn, gia đình ta có thể bị đầu độc vì thức ăn hàng ngày.

Các thức ăn thức uống mua từ Việt Nam và Trung Quốc bị khám phá có nhiều hóa chất độc hại, có thể giết chết nạn nhân ngay tại chỗ hoặc làm cho nạn nhân bị tàn tật suốt đời, tàn phá những bộ phận trong ngũ tạng hay trí não, khiến cho có người dở khùng dở điên. Những trẻ em bị ngộ độc chưa biết sẽ ra sao ngày sau. Những đồ dùng mang vào trong người, cũng có chất độc, làm lở lói da thịt, chảy máu mũi, sưng phù lỗ tai, di hại đến những bộ phận khác.

Chúng ta sẽ tuần tự duyệt qua các bằng chứng cụ thể. Từ đó, mỗi người sẽ tìm cách tự vệ cho mình và cho gia đình.


Chất Ðộc Từ Trung Quốc Xuất Cảng Sang Các Nước Phương Tây

Từ ngày 19 tháng 9 năm 2008, đài BBC liên tiếp loan tin sữa tươi và sữa bột sản xuất từ Trung Quốc có chất độc melamine. Ở Hồng Kông, sở Y Tế khám phá sự việc sau khi có 4 em chết và 6000 em khác phải được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Chính phủ Hồng Kông ra lệnh gởi trả lại tất cả các loại sữa chế biến tại Trung Quốc. Hóa chất này được giới khoa học dùng trong kỹ nghệ chế biến đồ dùng nylon, không phải đồ ăn. Nhà chế biến cho biết, chất melamine được thêm vào để tăng lượng protêoin và làm giá bán của sản phẩm rẻ hơn. Nhà cầm quyền không nói gì thêm và cũng không thể biết trước tình trạng sức khỏe của các em sẽ ra sao về sau.

Tại Úc Ðại Lợi, các loại sữa bột và sản phẩm bơ, phó-mát, yaourt, cũng được khám phá có chất melamine và bị tức khắc chặn lại, không cho bán ra thị trường. Theo Agence France-Presse thì hệ thống siêu thị Jian-Mart, là hệ thống siêu thị rộng lớn trên nhiều tiểu bang đã ra lệnh thu hồi tất cả các sản phẩm và phó sản sữa đến từ Trung Quốc để tiêu hủy. Trong 295 mẩu sản phẩm của các xí nghiệp Yilin, Mengniu and Guangming, được gửi đến phòng thí nghiệm thì có đến 34 mẩu bị nhiễm độc nguy hiểm, đưa đến quyết định của Sở Y Tế là tất cả sản phẩm này, trong kho hay đang bày bán trong cửa hàng đều được thu hồi và tiêu hủy. Giới thẩm quyền Úc Ðại Lợi không dám gửi trả lại cho Trung Quốc vì sợ Trung Quốc sẽ đem bán lại cho nơi khác, nên đành phải tiêu hủy.

Tháng 11 năm 2008, Trung Tâm Y Tế Dự Phòng của Hồng Kông khám phá trong nhiều loại cá và rau tại các siêu thị trong đặc khu hành chánh có chứa các loại hóa chất độc hại, nhưng chưa đến mức nguy hại nên cho phép sử dụng. Ðến ngày 10 tháng Hai năm 2009, cũng cơ quan này thông báo số lượng các chất độc hại đã tăng lên và ra lệnh ngăn cấm buôn bán các sản phẩm này. Chưa biết số lượng đã bán ra cho công chúng là bao nhiêu và bao nhiêu người có sức khỏe bị tác hại.

Ở Hoa Kỳ, tháng 8-2007, công ty Mattel, là một trong những công ty làm đồ chơi của Mỹ đã ra lệnh thu hồi và trả lại cho Lee Der của Trung Quốc tất cả 967,000 món đồ chơi dành cho trẻ em ở lớp mẫu giáo, vì trong những đồ chơi này có chứa quá nhiều chất chì (lead) có hại cho sức khỏe con người. Các đồ chơi này rất thông dụng đối với trẻ em ở Mỹ, dưới nhãn hiệu Fisher-Price, là những nhân vật trong phim hoạt họa và các vỡ kịch trên TV. Sở Y Tế Hoa Kỳ tiếp tục theo dõi và lưu ý nhiều hơn về các sản phẩm tương tự. Chất chì có thể những tác hại cho đường tiêu hóa và hô hấp của các em thiếu nhi, và cũng tác hại đến thần kinh.

Trong những tháng đầu năm 2008, sở Y Tế Hoa Kỳ lại phát giác trong kem đánh răng, bàn chải đánh răng, thức ăn cho chó mèo,... cũng có chất độc có hại cho sức khỏe của con người và súc vật trong nhà. Những thứ này mua từ Trung Quốc nên bị trả về cho Trung Quốc để bắt đền và đòi trả lại tiền. Các nhà thương mại chỉ tính vào sự thua thiệt tính bằng đồng Ðô La, nhưng các bậc cha mẹ thì phải quan tâm vì nó có hại cho sức khỏe của con cái. Không cha mẹ nào chấp nhận bỏ chất độc vào trong cơ thể con cái mình dù ít hay nhiều, dù chưa biết kết quả ra sao về sau này.


Chất Ðộc Từ Trung Quốc Sang Việt Nam

Tháng Năm-2009, tin của thông tấn AFP được đăng trên Tuần Báo Kinh Tế Sài Gòn rằng, trong áo quần và đồ dùng cho trẻ em như ly, cốc, muỗng, chai, lọ, núm vú,... làm bằng nylon hay những thứ bằng gỗ, có chức chất độc formaldehyde, vượt quá mức cho phép. Chất này thường được gọi nôm na là fooc-môn, có thể gây viêm nhiễm da và đường hô hấp. Ðồ chơi cho con nít còn có các chất độc khác như chì, catmi và crom. Ðây là những sản phẩm từ Trung Quốc bán qua cho Việt Nam.
Ngày 7 Tháng Tám-2008, báo Tuổi Trẻ của CSVN viết rằng: "Ðồ chơi trẻ em: cực rẻ và cực... độc... Hầu hết trẻ em VN đang chơi đồ chơi có xuất xứ từ Trung Quốc (TQ) nhưng chẳng ai biết được những món đồ chơi đó được sản xuất bằng chất liệu gì. Còn các chuyên gia thì cảnh báo nhiều đồ chơi TQ không an toàn cho trẻ em".

"Theo một số chủ cửa hàng, đồ chơi TQ trông bắt mắt, kiểu dáng đa dạng, nhiều tính năng, màu sắc hấp dẫn và giá rất rẻ nhưng lại thiếu một yếu tố quan trọng là tính an toàn cho sức khỏe.
Một doanh nghiệp chuyên sản xuất đồ chơi trẻ em trong nước cho biết điều cấm kỵ nhất là không được dùng nhựa PVC để sản xuất đồ chơi cho trẻ em, nhưng hàng TQ lại "ưa" sử dụng loại nhựa này. Nhựa PVC làm cho sản phẩm mềm, dẻo, độ sáng bắt mắt, màu sắc rực rỡ nhưng nếu trẻ em cầm nắm, thậm chí đưa vào miệng ngậm sẽ rất nguy hiểm".

Những trẻ em này là con nhà nghèo, không phải là con em của cán bộ cộng sản. Họ là nạn nhân của những chất độc hại này. Nhiều chứng bệnh sẽ được để lại trên những con em không phải là dòng dõi cộng sản. Gia đình những cán bộ cộng sản thì tiêu dùng và ăn uống những sản phẩm mua từ các nước tiên tiến ở phương Tây, bảo đảm không có chất độc và không bị tai hại cho trí não.

Chẳng khác nào, những sản phẩm có chất độc được đánh dấu và bán cho những người thuộc thành phần địch thủ của họ. Ðịch thủ của họ là những người không phải là đảng viên cộng sản. Và, đối tượng của họ cũng là những người tỵ nạn cộng sản.


Việt Nam Mua Chất Ðộc của Trung Quốc Rồi Xuất Cảng Sang Tây Phương

Cho đến nay, theo báo chí trong nước thì Việt Nam không có khả năng chế tạo các loại chất độc mà hầu hết đều mua từ Trung Quốc. Những chất độc này được cho vào thực phẩm để xuất cảng sang Hoa Kỳ và Canada để bán cho người Việt tỵ nạn cộng sản.

Cơ Quan An Toàn Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã từ chối, không cho nhập cảng vào Hoa Kỳ rất nhiều sản phẩm có chứa chất độc. Chỉ riêng trong tháng Tư năm 2008, 27 lô hàng mà phần lớn là thực phẩm đã chế biến, sản xuất từ Việt Nam. Lý do bị chặn lại vì có chất độc nguy hại sức khỏe cho người tiêu dùng. Ngoài Hoa Kỳ và Canada, các loại thực phẩm này còn được nhập cảng vào các quốc gia có người Việt tỵ nạn cộng sản sinh sống tại Âu châu, Úc châu và cả Nhật Bản.

Nhân viên làm việc tại Cơ Quan An Toàn Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ đã cho phổ biến các báo cáo về các thực phẩm có chất độc và bị cấm nhập cảng vào Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đã có một số lượng còn bày bán ở chợ, có thể đã lọt lưới, không bị chặn do các đợt kiểm phẩm khác nhau.

Một danh sách thật dài gồm có tên sản phẩm, chất độc có chứa bên trong và tên công ty sản xuất, đã được phổ rộng rãi khắp nơi. Ở đây, chỉ lựa ra vài sản phẩm tiêu biểu.

1- Tôm đông lạnh của hãng Aquatic Products Trading Company, Sài Gòn, trộn lẫn các chất dơ bẩn và độc tố (FILTHY, SALMONELLA).

2- Cua đông lạnh của công ty Mai Linh Private Enterprise, Vũng Tàu, có hóa chất phụ gia chloramphenicol (CHLORAMP).

3- Chả cua đông lạnh do Batri Seafood Factory (Bến Tre) sản xuất có hóa chất phụ gia chloramphenicol không an toàn cho sức khỏe.

4- Thịt cua nấu chín đông lạnh, lươn đông lạnh của Nam Hai Company ở Sài Gòn, có trộn lẫn độc tố gây ngộ độc, độc chất salmonella và hóa chất phụ gia chloramphenol (POISONOUS, CHLORAMP, SALMONELLA,)

5- Tiêu đen, Olam Vietnam Ltd, Gia Nghĩa, sản xuất, có chứa độc chất Salmonella.

6- Cá ngân cắt khúc đông lạnh của công ty Van Nhu Seafoods Limited Company, chế biến dơ bẩn, lẫn lộn các chất hỗn tạp.

7- Tiêu bột của Nam Phong Trading Co,Sài Gòn, có chứa độc chất Salmonella.

8- Cá đông lạnh của Nhan Hoa Co., Ltd, Sài Gòn, có chứa độc tố Salmonella;

9- Cá lưỡi kiếm đông lạnh của United Seafood Packer Co. Ltd, chứa chất gây ngộ độc (poisonous).


Còn nhiều nữa, các thực phẩm khô như bánh tráng, bún sợi, mì sợi,... cà phê Trung Nguyên,... kể ra thì rất dài và không khỏi bị cho là bất công hoặc thiếu sót vì còn rất nhiều mặt hàng không chặn kịp trong những đợt kiểm phẩm trước đây.

Vấn đề không phải là đi tìm món hàng nào độc, món nào không độc. Các nhà sản xuất của Việt cộng không thể chế những chất độc ấy. Tất cả chất độc đều mua từ Trung Quốc. Hai chế độ cộng sản VC và TC này đang bách hại những ai không phải là người của chúng nó. Ðiều này được thấy rất rõ qua sự việc cán bộ chỉ ăn uống những thực phẩm phẩm nhập cảng từ những nước tiến tiến. Những đồ dùng cũng mua từ các nước Tây phương để tránh tình trạng dính chất độc vào da. Trong khi ấy, dân chúng và những người Việt ở hải ngoại thì xác xuất rất cao sẽ bị nhiễm độc vì đã sử dụng những sản phẩm có chất độc, mua từ Trung Quốc hoặc từ Việt Nam.

Nếu bảo rằng, Việt cộng và Trung cộng đang tiến hành một cuộc chiến vi trùng để hại người thì có thể bị cho là quá đáng. Nhưng nếu bảo rằng sản phẩm "made in China" và "made in Vietnam" có chứa chất độc thì quá hiển nhiên. Chúng ta, những người chống cộng quyết tâm phải khử trừ bọn cộng sản để cứu nguy nhân loại phải biết cách tự vệ. Cách bảo vệ hữu hiệu nhất cho bản thân và gia đình là không dùng bất cứ sản phẩm nào nhập cảng từ Trung Quốc hay từ Việt Nam.


Lê Văn Bảy


20 August 2009

Đảng trị sinh bất công


Khác với các nước dân chủ tự do, nhà nước Cộng Sản nắm trong tay nhiều “khí cụ” có thể giúp cho một số người giầu nhanh lên, hoặc bắt họ đi chậm lại. Ở các nước Âu Mỹ chính phủ có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế; nhưng giữ tiêu chuẩn công bằng: Mỗi quyết định thường gây ảnh hưởng đồng đều trên tất cả mọi người. Khi nào chính phủ muốn giúp đỡ hoặc kích thích cho riêng một lãnh vực nào đó, thì cả nước được bàn bạc, thảo luận xem các hành động đó có ích lợi chung cho cả quốc gia hay không.

Ngô Nhân Dụng


Chỉ số thị trường chứng khoán Thượng Hải đã tăng thêm 90% trong hơn bẩy tháng kể từ đầu năm 2009. Một số người Trung Hoa bỗng nhiên thấy tài sản mình tăng lên gần gấp đôi, trong khi cả nền kinh tế chỉ đăng 8% một năm. Tại sao có những người làm giầu nhanh hơn người khác?

Ở những nước tự do dân chủ với kinh tế thị trường đích thực thì nhiều người làm giàu nhờ có kỹ năng giỏi hơn, hoặc khi làm ăn dám chấp nhận rủi ro lớn hơn thiên hạ. Những người Trung Quốc làm giầu nhanh chóng có phải vì họ tài giỏi hơn, hoặc họ dám chấp nhận may rủi nhiều hơn người khác hay không? Không nhất thiết như vậy. Họ khá giả được phần lớn nhờ chính sách của nhà nước.

Trong quý thứ hai năm 2009 chính phủ Bắc Kinh bắt đầu bơm tiền “kích thích kinh tế” cho các ngân hàng của nhà nước. Các ngân hàng đem cho các xí nghiệp của nhà nước vay. Những xí nghiệp này đem một phần đầu tư vào máy móc, thiết bị, nhưng không dùng hết. Theo lối họ quen “du di” tùy tiện, ban giám đốc các xí nghiệp đem tiền dư đi đầu tư vào địa ốc và mua cổ phiếu. Tự nhiên giá nhà cửa và giá cổ phiếu tăng vụt lên. Tháng trước, đảng Cộng Sản Trung Quốc bắt đầu lo sẽ làm hai trái bong bóng địa ốc và cổ phần cùng phồng lên rồi sẽ vỡ, ra lệnh tốp bớt lại. Họ bảo các ngân hàng nhà nước giảm tốc độ cho vay. Vì thế trong một tháng qua chỉ số chứng khoán ở Thượng Hải đã tụt mất 16%.

Khác với các nước dân chủ tự do, nhà nước Cộng Sản nắm trong tay nhiều “khí cụ” có thể giúp cho một số người giầu nhanh lên, hoặc bắt họ đi chậm lại. Ở các nước Âu Mỹ chính phủ có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế; nhưng giữ tiêu chuẩn công bằng: Mỗi quyết định thường gây ảnh hưởng đồng đều trên tất cả mọi người. Khi nào chính phủ muốn giúp đỡ hoặc kích thích cho riêng một lãnh vực nào đó, thì cả nước được bàn bạc, thảo luận xem các hành động đó có ích lợi chung cho cả quốc gia hay không. Thí dụ, khi chính phủ George W. Bush quyết định dùng 700 tỷ cứu nguy các ngân hàng, hoặc khi chính phủ Obama muốn đem gần 800 tỷ kích thích nền kinh tế đang suy thoái, hoặc khi quyết định cứu nguy các công ty sản xuất xe hơi, cả ba lần đó Quốc Hội đã tranh luận gắt gao, trên báo chí có các chuyên gia bàn tán các mặt tốt và xấu. Sau khi thiên hạ bàn tán rồi, Quốc Hội biểu quyết và chịu trách nhiệm về quyết định đó với các cử tri, trong mùa bầu cử năm tới.

Ở các nước Cộng Sản thì khác. Ðảng Cộng Sản có quyền chọn một nhóm người nào đó trong xã hội để nâng lên hay hạ xuống mà không cần dân góp ý kiến. Những người được chọn hưởng lợi ích qua các quyết định của đảng thường là những đảng viên cao hoặc trung cấp và các tay làm ăn chung với họ. Ðiều này thể hiện rõ rệt nhất trong các chính sách đầu tư, thuế khóa, và định hướng nền kinh tế quốc gia.

Thí dụ, ai cũng biết rằng “tỷ lệ tiết kiệm” của dân Trung Hoa cao hơn nhiều quốc gia khác, chắc chắn là cao hơn dân Mỹ. Nhưng dân Mỹ được tự do quyết định mình tiêu xài bao nhiêu, tiết kiệm bao nhiêu - và họ thường chi tiêu rất nhiều, có lúc nhiều hơn cả số tiền kiếm được. Chính phủ Mỹ có cách ảnh hưởng trên tỷ lệ tiết kiệm của dân. Một thí dụ là tăng thuế tiêu thụ, tức là bắt dân tiêu thụ bớt đi và đưa tiền cho chính phủ trả nợ, đó là một cách “cưỡng bức tiết kiệm.” Tăng lãi suất cũng là buộc mọi người phải tiết kiệm vì đi vay tiền chi tiêu phải chịu lãi cao quá. Gần đây, tỷ lệ tiết kiệm của dân Mỹ đã tăng lên tới 5%, sau những năm tỷ lệ này chỉ suýt soát số không, zero!

Còn tất cả hơn một tỷ người dân Trung Quốc nói chung đã tăng tỷ lệ tiết kiệm từ 21% vào năm 1998 lên tới 24% vào năm 2008. Cứ tạo ra được 100 đồng thì tiết kiệm 24 đồng. Có phải dân Trung Hoa không thích mua quạt máy, tủ lạnh và sắm quần áo mới hay không? Lý do chính là do “định hướng xã hội chủ nghĩa” của đảng Cộng Sản.

Một nguyên nhân khiến dân Trung Hoa phải để dành tiền nhiều hơn là vì chính sách kinh tế của nhà nước Cộng Sản đã xóa bỏ hệ thống an sinh xã hội, gồm cả dịch vụ y tế lẫn giáo dục và tiền hưu bổng. Trước kia các công nhân đi làm cho doanh nghiệp nhà nước hoặc nông dân trong công xã được xí nghiệp hoặc công xã chu cấp những khoản đó. Từ khi đảng Cộng Sản đổi mới, công nhân các xí nghiệp được cải tổ, giải tư, hoặc đóng cửa, nông dân các làng đều mất những quyền lợi này mà đảng không tạo ra những mạng lưới an toàn khác để thay thế. Kết quả là hàng trăm triệu gia đình phải tự lo trả tiền lấy khi chữa bệnh, đóng tiền cho con cái đi học và tự lo lấy thân khi về hưu. Vì vậy, họ phải tiết kiệm để phòng khi ốm đau, già lão. Không tiết kiệm nhiều không được!

Nhưng mối lo lắng cho tương lại chỉ là một nguyên nhân khiến con số tỷ lệ tiết kiệm ở Trung Quốc cao hơn các nước khác. Nguyên nhân quan trọng không kém là do tình trạng lợi tức quốc dân phân bố không đồng đều, do chính sách của đảng Cộng Sản gây nên. Một cuộc nghiên cứu của Louis Kuijs (Ngân Hàng Thế Giới ) và Tao Wang (Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế) từ năm 2005 đã cho thấy chính sách phát triển của đảng Cộng Sản Trung Quốc là một nguyên nhân gây nên khoảng cách giầu nghèo mỗi ngày một rộng. Chính quyền Trung Quốc chú trọng đến bành trướng các xí nghiệp nhà nước trong những ngành công nghiệp nặng, qua việc đầu tư ào ạt vào máy móc tối tân (capital intensive) thay vì giúp phát triển các ngành dịch vụ dùng lao động nhiều hơn máy móc (labor intensive). Chủ trương đó đã khiến cho sản năng của lãnh vực nông thôn không tiến được như một vài lãnh vực công nghiệp ở đô thị, và khi sản năng tiến chậm thì lợi tức và lương bổng cũng phải thấp hơn, đào xâu thêm cái hố phân biệt giầu nghèo giữa nông thôn và thành thị.

Tại sao giầu nghèo chênh lệch lại ảnh hưởng khiến tỷ lệ tiết kiệm trong nước tăng lên? Những người nghèo chiếm đa số họ phải chi tiêu nhiều hơn khi lối sống thay đổi, cả xã hội đua nhau hướng về tiêu thụ, do đó họ có thể giảm tỷ lệ tiết kiệm hoặc tăng rất ít; còn những người giầu, dư tiền nên để dành cho tương lai thuộc thiểu số nhưng tiết kiệm gấp bội làm lệch cán cân cả nước. Thí dụ, đại đa số 90% dân Trung Hoa với lợi tức thấp vẫn giữ tỷ lệ tiết kiệm ở mức 21% như cũ, nhưng 10% còn lại giầu có đã nâng tỷ lệ tiết kiệm từ 21% lên thành 51%, thì khi làm tính cộng số trung bình ta sẽ thấy tỷ lệ tiết kiệm của các gia đình tăng từ 21% lên 24% trong mười năm.

Nhưng chính sách phát triển thiên về thành thị của đảng Cộng Sản Trung Quốc chỉ giải thích được một phần lý do tại sao lợi tức chênh lệch. Một nguyên nhân trực tiếp là trong cái bánh “Tổng Sản Lượng Nội Ðịa” (GDP) đem chia cho toàn dân, phần bánh các gia đình được hưởng đã giảm đi, khi so sánh tương đối với phần chia cho các xí nghiệp. Nghĩa là đảng Cộng Sản đã chia phần nhiều hơn cho các “ông chủ” dù đó là tư nhân hay quốc doanh.

Các xí nghiệp ở Trung Quốc được ưu đãi khi đi vay các ngân hàng của nhà nước, với lãi suất thấp. Trong khi đó, các ngân hàng này trả tiền lãi cho các người dân để dành tiền với một lãi suất rất thấp; nhưng đại đa số không có lựa chọn nào khác nên vẫn phải gửi. Chính sách của đảng Cộng Sản là lấy tiền tiết kiệm của dân với giá rẻ, đưa cho ngân hàng để cho các doanh nghiệp nhà nước vay bằng tiền lời thấp. Các xí nghiệp đó sinh ra lời sẽ dồn vào túi các ông lớn, còn số tiền đem trả lại cho công quỹ (giống như tiền lời chia cho chủ nhân các xí nghiệp) gần như bằng số không.

Tại sao các doanh nghiệp nhà nước lại được ưu đãi như vậy? Vì đó là nơi đảng Cộng Sản chia chác các chức vụ cho đồng đảng, trung ương có các xí nghiệp trung ương, mỗi tỉnh, huyện, vân vân, có doanh nghiệp của họ. Cả hệ thống ngân hàng lập ra để “bồi dưỡng” các loại cán bộ kinh tế đó.

Trên đây chỉ là một khía cạnh trong chính sách kinh tế của đảng Cộng Sản Trung Quốc cố ý gây nên cảnh chênh lệch giầu nghèo. Một mặt khác của chủ trương Cộng Sản là lấy hoạt động đầu tư vào cơ xưởng, nhà cửa, thiết bị làm động cơ phát triển chứ không lấy tiêu thụ làm đầu máy. Nhìn con số tỷ lệ phát triển của Trung Quốc 10% hay 8% trong mấy năm qua, trong số đó phần lớn do tiền nhà nước đưa cho các xí nghiệp đầu tư qua hệ thống ngân hàng. Hiện nay trong Tổng Sản Lượng Nội Ðịa của Trung Quốc cứ 100 đồng có 40 đồng là do đầu tư. Tỷ lệ tiêu thụ của tư nhân đã giảm đi, từ 49% GDP vào năm 1990 đã giảm xuống chỉ còn 35% vào năm 2008. Nghĩa là trong chiếc bánh kinh tế quốc dân, người dân bình thường trước kia được ăn gần một nửa, nay chỉ được ăn hơn một phần ba.

Chính sách bắt dân giảm tiêu thụ để dồn tiền cho các xí nghiệp đầu tư cũng là chính sách ưu đãi một tầng lớp cán bộ kinh tế và những người làm ăn, chia chác với họ. Vì mỗi công trình xây cất, mỗi dịp mua máy móc, thiết bị là những cơ hội ăn hối lộ. Trong vài năm nữa, tổng số tiền đầu tư của cả nước Trung Hoa sẽ cao bằng tổng số đầu tư trong kinh tế nước Mỹ. Nhưng tổng số tiêu thụ của 1.3 tỷ người Trung Hoa chỉ lớn bằng một phần sáu của 300 triệu dân chúng Mỹ. Tại Mỹ, phần bánh chia cho người tiêu thụ là 70% của Tổng Sản Lượng Toàn Quốc, tại các nước Á Châu khác cũng lên tới từ 50% đến 60%; trong khi người dân Trung Quốc chỉ được hưởng 35% cái bánh mà sức lao động của họ tạo nên.

Tình trạng bất công đó có thể thay đổi được nếu người dân Trung Hoa có quyền thảo luận chính sách kinh tế của nhà nước, và khi họ có quyền bỏ phiếu để thay đổi những người nắm quyền. Ở Trung Quốc thì còn lâu, vì đảng Cộng Sản nhất định bảo vệ độc quyền chính trị để duy trì tình trạng phân chia không đồng đều này. Chính chế độ độc tài đảng trị đã sinh ra cảnh xã hội bất công.

Ngô Nhân Dụng

14 August 2009

Người Cộng Sản Có Phải Là Người Việt Nam Hay Không?


Tại Việt Nam, cuốn "Mặt Thật" của Bùi Tín cho thấy Lê Đức Thọ là một tay đại lưu manh. Trong cuốn "Đêm Giữa Ban Ngày" bằng lưu manh hạng A phải giành cho Trần Quốc Hoàn. Thực ra không phải hai tay nói trên giử độc quyền lưu manh. Từ Hồ Chí Minh đến Lê Duẫn, Phạm Hùng, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh trong qúa khứ đến Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Đào Duy Tùng, Trương Tấn Sang, Lê Khả Phiêu v.v...trong hiện tại đều lưu manh như nhau không tay nào kém tay nào.

Nhóm Thiện Chí



Ý Chính: Chúng tôi khảng định những người Cộng Sản thuần thánh không phải là người Việt Nam. Họ là những tên tay sai của ngoại bang, lại còn tham quyền cố vi và gian ác.

Mới thoạt nhìn, tựa của bài viết này có vẽ không ổn, người Cộng Sảng Việt Nam (CSVN), dù là thiên thần hay ác quỷ, là người Việt chớ còn là người gì nữạ Họ không nói tiếng Việt sao ? Họ không ăn cơm bằng đũa, không ăn canh chua, cá kho, húp nước mắm sao ?

Đúng là nhìn bề ngoài, người CSVN là người của dân tộc Việt. Nhưng khi khảo sát kỷ hơn chúng ta thấy một nghịch lý trong muôn ngàn nghịc lý chứa đựng trong thế giới Cộng sản nói lên những con người gọi là Việt nhưng không phải là Việt. Thật là một chuyện kỳ cục mà người Pháp trong thế kỷ 19, thời vàng son của đế quốc thực dân Tây phương, dùng chữ chinoiserie để nói lên một chuyện lẫm cẩm đồng thời để mạt sát các chú con trời.

I. PHI TÔN GIÁO

Từ khi con người xuất hiện trên quả đất và khi họ ý thức được sự hiện hữu, con người cũng ý thức được rằng sự đau khổ đi liền với thân phận con người như bóng với hình. Từ đó ước mơ được thoát khỏi sự đau khổ đã ám ảnh con người ở mọi thời đạị Khát vọng được gặp một đấng cứu rỗi dần dắt ra khỏi đau khổ là ý nghĩ bức xúc nhất của con người, có lẽ còn khẩn thiết hơn cơm ăn áo mặc.

Hai tôn giáo lớn nhất của loài người đã dáp ứng lại nhu cầu muốn được cứu rỗi khỏi cảnh khổ trần gian của con người với sự hứa hẹn cảnh gới thiên đàng của Thiên Chúa Giáo với niết bàn của Phật Giáo.

Đức Giê Su và Đức Thích Ca đã giảng dạy cho con người làm thế nào để thoát khỏi cảnh khổ đau trần thế. Lời dạy của các ngài đã được đồ đệ ghi chép và trở thành giáo lý căn bản mà tín đồ thuần thánh phải tuyệt đối tuân theo nếu muốn đạt được mục tiêu diệt khổ.

Thời phục hưng Thomas More, vị tể tướng của vua Henri VIII nước Anh cho xuất bản cuốn Utopia (Nơi Không Tưởng) năm 1526. Quyển sách này tạo cho More một chỗ đứng độc nhất, một tiền bối trong truyền thống Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN). Dù là tể tướng More, đã bất lực nhìn cảnh bất công trong xã hội Anh. Giới quý tộc ăn không ngồi rồi, bọn buôn vàng (tương đương với chủ ngân hàng thời nay) cho vay nặng lãil, làm chủ phần lớn tài sản xã hội, trong lúc đó những người tạo ra tài sản cho xã hội là người lao động thì làm việc quần quật suốt đời mà vẫn sống trong cảnh nghèo túng. Luật lệ chỉ là công cụ để hợp pháp hoá tình trạng bất công đó. More chưa tìm ra được giải pháp nào để chấm dứt bất công. Ông ta đành ghi chép mơ ước của mình lên mặt giấy bằng cách mô tả cuộc sống trong một xã hội lý tưởng ở một điạ điểm tên là đảo Utopia, nơi đó loài người không còn biết đến đau khổ nữạ Xã hội lý tưởng hay là thiên đàng hạ giới này là một xã hội công bằng dựa trên sự bình đẳng tài sản. Mọi người dân đều làm việc hết sức mình vì ý thích và ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng. Tất cả nhu cầu vật chất của con người được xã hội cung cấp dư thừạ Mọi người đều bình đẳng về tài sản, không có tài sản riêng tư hay đúng ra tài sản riêng tư không có nghĩa lý gì trước sự dư thừa vật chất. Đời sống cá nhân được xã hội bảo đảm từ khi mới sinh ra đến khi chết. Xã hội không có tội ác vì không có nghèo đói và mọi người sống trong hoà bình.

Thật là tốt đẹp, hấp dẫn đối với cái biển người đau khổ trên thế giớị Nếu có thiên đàng như lời Chúa dạy thì đời sống tại đó không khác gì ở đảo Utopia.

Thế kỷ 19 mở đầu với suy tàn của đế quốc Nã Phá Luân. Chiến tranh không còn là nỗi ưu tư hàng đầu của những quốc gia Âu châụ Khi sức mạnh hơi nước được áp dụng vào công nghiệp, sự sản xuất quy mô hàng hoá gọi là cách mạng công nghiệp bắt đầu trong thế kỷ 18 đã là một bước nhảy vọt vào giữa thế kỷ 19. Các nước tiền tiến như Pháp, Anh, Phổ (sau trở thành nước Đức) đã lao vào con đường kỷ nghệ hoá bằng mọi giá, không cần lưu tâm đến vấn đề ô nhiễm môi sinh, hố phân cách giàu nghèo, tệ nạn xà hội.

Đây là giai đoạn pháp triển của tư bản rừng rú. Các chủ nhân ông xí nghiệp chỉ quan tâm đến hai chữ lợi nhuận, làm sao thu được lợi nhuận cao nhất, thân phận của người thợ, người làm ra sản phẩm thì ra sao cũng mặc.

Hoàn cảnh phát triển đó đã tạo ra hai giai cấp với quyền lợi đối nghịch nhau: giai cấp những ông chủ xí nghiệp được các nhà xã hội học gọi là giai cấp tư bản và giai cấp những người làm công hay là giai cấp lao động.

Trong khi những ông chủ sống cuộc đời vật chất quá đầy đủ dư thừa thì người lao động làm cật lực có khi không đủ ăn, nhà ở thường là khu ổ chuột. Lương tâm con người không chấp nhận cảnh bất công đó. Một loạt các nhà xã hội học Pháp và Anh đưa ra những giải pháp để chấm dứt những bất công, tạo bình đẳng xã hộị Trong số đó, một gương mặt nỗi bật là Karl Marx chê tất cả những nhà xã hội học trước và đồng thời với ông là những người không tưởng hay nói trắng ra những người đó chỉ nói nhảm. Chỉ có Ông mới xứng đáng là người cứu rỗi cho giai cấp bị bóc lột với lý thuyết duy vật biện chứng lịch sữ hay là duy vật sử quan.

Chắc chắn Marx không có mộng tưởng làm giáo chủ một tôn giáo vì thuyết duy vật của ông ta xem tôn giáo là đồng minh của các tay tư bản bốc lột. Tuy nhiên sự ra đời của tư tưởng Marx hay là ý thức hệ Mác Xít cho đến khi đảng Bolchevick của Lenine cướp được chính quyên` ở Nga tháng 11 năm 1917, sự xuất hiện đảng cộng sản tiếp theo đó là một thực thể siêu quốc gia gọi là Liên Bang Xô Viết, tất cả biến cố đó đúng là một tiến trình hình thành một tôn giáọ Trong tiến trình này, trước tiên phải có một nhân vật cá tính mạnh mẽ khác hơn người thường được tín đồ đời sau xem là giáo chủ như đức Giê Su và đức Thích Ca vì các vị này đưa ra sự cứu rỗi con người khỏi cảnh khổ đaụ Với những người chấp nhận lý thuyết Mác Xít và đảng viên cộng sản, Marx được tôn lên điạ vi tương tự một giáo chủ vì Marx cũng đưa ra sự cứu rỗi nhưng thày v̀i chỉ cho con người đến những bến bờ xa xôi như thiên đàng hay nát bàn, Marx đã chỉ phương cách để đến một thiên đàng vật chất ngay tại thế gian là xã hội cộng sản.

Khi có giáo chủ phải có bước kế tiếp là giáo lý hay là những lời giảng dạy của giáo chủ khi còn tại thế. Những lời giảng dạy đó về sau được tín đồ thu gom, hệ thống hoá lại trong những bộ sách gọi là kinh thánh hay kinh. Những lời giảng dạy trong kinh là chơn lý nên tín đồ tuyệt đối tin theo Danh tư giáo điều và tánh chất giáo điều bắt nguồn từ sự bắt buộc tin tưởng tuyệt đối đó.

Hai chữ giáo điều không phải là trò chơi vô thưởng vô phạt của các nhà thần học. Nó biểu lộ tánh chất khắc nghiệt trong đời sống thực tế. Có khi một số giáo dân thời trung cổ bị các tòa án của giáo hội La Mã đưa lên giàn hoả vì có tư tưởng hay hành động sai trái với lời dạy trong Thánh Kinh.

Trong thế giới Cộng Sản, lời rao giảng của Marx về sau thêm phần đóng góp của Lenine gọi là chủ thuyết Mác-Lê? biến thành kinh thánh cho người cộng sản thuần thánh bất kỳ ở quốc gia nào trên thế giớị Tánh chất giáo điều của thuyết Mác-Lê? cũng không khác gì các tôn giáo khác. Người cộng sản hiểu lệch lạc hay đi sai đường mà từ ngữ Cộng sản gọi là chệch hướng không bị đưa lên giàn hoả nhưng bị đối xữ khắc nghiệt không kém như bị một viên đạn vào ót hay là lao dộng cải tạo trọn đời.

Có Giáo chủ, có giáo lý với tánh chất giáo điều, phải có thêm giáo hội và giáo dân mới hoàn thành tiến trình một tôn giáọ Khi xuất hiện Lenine trong thế giới Mác Xít, nhà giấy loạn thiên tài này đẻ ra một công cụ độc đáo mà thế giới của loài người gian ác từ cổ chí kim chưa nghĩ ra là Đảng Cộng Sản.

Tất cả bí thư của uỷ ban đảng Cộng sản từ thấp nhất gọi là cơ sở đến trung ương họp thành giáo hộị Cầm đầu giáo hội là một ông vua không ngai là Tổng bí thư hay là Giáo chủ và triều đình gồm có các vị đại thần là uỷ viên Bộ chính trị và các uỷ viên trong ban chấp han`h trung ương. Giáo dân của tôn giáo mới này là đảng viên đảng Cộng sản.

Thế giới cộng sản có đủ bộ phận cấu thành cần thiết để trở thành một tôn giáo nhưng không vươn lên được ngang hàng một tôn giáo để tồn tại trong chiều dài lịch sử mà chỉ trụ lại hàng giáo phái (secte) với đời sống phù du chỉ vì sự cứu rỗi của Giáo chủ đưa ra không thực tâm là cứu rỗị Đó chỉ là một công cụ lừa bịp lòng cuồng tín của tín tồ để cho một số người cầm đầu giáo hội thủ lợị Đây là một giáo phái thuộc về loại tà giáo hay là ma giáo trong tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung. Những tôn giáo chân chính rao giảng tình thương, giáo phái của Lenine truyền bá hận thù và khai thác phần ác trong tâm thức con người để dạy cho giáo đồ sử dụng tội ác để đạt mục tiêu.

Chúng ta hãy nhìn kỷ đảng cộng sản của Lenine để xem tập hợp tội ác này có đúng là Ma giáo không.

Lenine là một thiên tài về dấy loạn. Ông ta lập Đảng Cộng Sản là một tổ chức của những người cuồng tín, say mê với chủ thuyết Mác-Lê? với chức năng làm cách mạng XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. Đây là những tay dấy loạn chuyên nghiệp lấy sự tranh đấu để cướp chánh quyền của nhà nước Tư sản làm lè sống. Để đào tạo nên những tay dấy loạn chuyên nghiệp này, Lenine đã truyền thụ cho họ kỷ thuật giấy loạn mà y đã nghiền ngẫm lâu dài trong thời kỳ sống lưu vong. Kết quả đạt được là người Cộng sản thuần thánh (xin để qua một bên đám Cộng sản cơ hội) là những tay chuyên vê dấy loạn, những tay đấu tranh, bất kể quân sự hay chính trị, cực kỳ lợi hạị Nhưng sự truyền thụ kỷ thuật đấu tranh chỉ là một phần trong chương trình đào tạo nên người Cộng sản. Phần quan trọng nhất mà Lenine và các truyền nhân nối nghiệp đã thành công quá sức mong đợi là tạo nên một con người mới xứng đáng sống trong thiên đàng Cộng sản tương laị Đây là một mẫu người độc đáo chưa hề xuất hiện trong lic.h sử loài ngườị Người này với ngoại hình là người Nhật, ngươì Nga, người Đức ..vv .. nhưng hoàn toàn khác hẵn với đồng bào của họ về mặt suy nghĩ và tình cảm. Người mới đó chưa được các nhà nhân chủng học đặt tên. Chúng tôi gọi họ là Người Cộng Sản (NCS).

Để tạo nên mẫu người mới này các tay phù thuỷ Cộng sản đã dùng kỷ thuật tẩy não để xóa bỏ bộ phận suy nghĩ, cá tính, động thái của con người nói chung thay vào đó một bộ phận mới khiến cho người này chỉ suy nghĩ, hành động đúng theo phù thuỷ mong muốn. Cũng nên lưu ý là trong khi xóa bỏ con người với tinh thân` cũ, các phù thuỷ cũng xoá luôn bộ phận gọi là cảm tình trong con người mớị Nói một cách văn vẽ những người Cộng sản chỉ có óc nhưng hoàn toàn thiếu mất quả tim, thành ra trong thế giới Cộng sản kiếm đỏ mắt cũng không ra một chuyện tình nghĩa có thật. Thỉnh thoảng sách báo của văn nô kể lại thì toàn là chuyện bịa như già Hồ ôm hôn thắm thiết các bé con. Cáo Hồ hôn trước mặt mọi người nhưng có thể cha mẹ đứa bé đã chết trong cãi cách ruộng đất !

Để dễ hiểu tiến trình tẩy não tạo nên con người mới của Cộng sản xin đưa ra đây tiến trình tạo nên con người mới trong tà giáo Vodoo ở Haitị Theo tryền thuyết, các pháp sư trong tà giáo này cho nạn nhân uống một thứ thuốc lá cây bí mật để y chết đị Sau đó pháp sư đào mã y lên trong thời gian nào đó, cho uống một thứ thuốc khác để y sống lạị Người chết đi sống lại này gọi là Zombi, chỉ còn thể xác, bộ phận tinh thần cũ mất hẵn. Hắn chỉ suy nghĩ và hành động theo lệnh của pháp sự Thế là tên pháp sư có một tên nô lệ tuyệt đối trung thành để làm việc cực nhọc cho y mà không bao giời phản kháng vì người Zombi mắt khả năng nhận thức thân phận của mình.

Đảng Cộng Sản hay là giáo hội của một tà giáo cũng y như vậy đã thành công tạo nên những con Zombi mang danh là người Cộng sản. Họ đã đưa con người bình thường qua một tiến trình học tập chính trị và tẩy nãọ Tiến trình này đúng là một cái khuôn đúc với đầu vào đầu rạ Ngày xưa báo ở Việt Nam kể một chuyện trong một lò sát sinh ở Chicago, một con heo được đưa vào dây chuyền sát sinh ở đầu vào, đã biến thành những khúc xúc xích ở đầu ra.

Một người Tàu, hoặc Cuba hay Việt Nam ở đầu vào qua tiến trình khuôn đúc sẽ trỡ thành những con người mới giống hệt nhau về tâm thức ở đầu ra.

Con người gọi là Con Người Mới này, dù thuộc sắc tộc nào trên thế giới đều có chung những đức tánh sau đây, gọi là đạo đức cách mạng (tiếng của Cộng sản).

1- Nói Láo.

Dù người Cộng sản là người Việt, Cuba, hay Bắc Hàn hoặc một dân tộc nào khác, khi đã trỡ thành Cộng sãn đều nói láo một cách tự nhiên không hề biết ngượng là gì.

Ở Việt Nam một trường hợp nói láo mà mãi đến hơn mười năm sau dân chúng Việt Nam trong lúc trà dư tửu hậu vẫn còn nhắc lạị Năm 1985, trước khi đổi tiền lần thứ ba, một hôm, sau khi nghe dân chúng xầm xì về tin đồn sắp đổi tiền, Phó Thủ tướng Đỗ Mười lên đài phát thanh quả quyết nhà nước không hề có kế hoạch đổi tiền và tin đồn của kẻ xấu đưa rạ Chúng tôi không biết lúc đó Đỗ Mười có thề không ! Hai mươi bốn giờ sau, chánh phủ trong đó có Đỗ Mười ra lệnh đổi tiền.

2-Không Giử Lời Hứa.

Những nhà thương thuyết bên phía tự do phải mất nhiều năm dài để ký được một hiệp ước với một nước Cộng sản. Hiệp ước vừa ráo mực đã bị Cộng sản vi phạm. Những chánh khách Tây phương phàn nàn tại sao Cộng sản không tôn trọng lời hứạ Họ không biết đây là một cái mẩu con người mớị Muốn cho người Cộng sản thi hành hiệp ước phải biết cái quy luật khuôn vàng thước ngọc khi giao thiệp với Cộng sản. Quy luật đó nói rằng Cộng sản chỉ thi hành một hiệp ước nào khi sự thi hành có lợi cho chúng. Quy luật thứ nhì Cộng sản chỉ thi hành một hiệp ước, thực hiện một lời hứa khi chúng thấy thất hứa sẽ bị đập cho một đòn nên thân (như đập cây lên đầu cá). Những người Việt hải ngoại có nhiệt tâm với đất nước chủ trương nên hoà hợp hoà giải với Cộng sản để tránh đỗ máu vì máu đã đỗ nhiều rồi nên học thuộc lòng quy luật này trước khi ngồi lại nói chuyện với Cộng sản.

3-Lưu Manh.

Lãnh vực này gần như độc quyền với thế giới Cộng sản gồm có gian xảo, lừa đảo, lật lỏng, lưu manh, thủ đoạn, ăn ngược nói ngạo, đạo đức giả.

Không phải tình cờ khi điểm qua các tên tuổi lớn trong thế giới Cộng sản như Staline, Mao Trạch Đông, Kim Nhựt Thành, Hồ Chí Minh, Fidel Castro, Pol Pot, người ta thấy hệt như nhau như hai giọt nước là tay nào cũng lưu manh.

Tay Cộng sản nào cũng lưu manh. Thiếu đạo đức Cách mạng này thì chưa phải Cộng sản thuần thành hay là Cộng sản thứ thiệt.

Tại Việt Nam, cuốn "Mặt Thật" của Bùi Tín cho thấy Lê Đức Thọ là một tay đại lưu manh. Trong cuốn "Đêm Giữa Ban Ngày" bằng lưu manh hạng A phải giành cho Trần Quốc Hoàn. Thực ra không phải hai tay nói trên giử độc quyền lưu manh. Từ Hồ Chí Minh đến Lê Duẫn, Phạm Hùng, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh trong qúa khứ đến Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Đào Duy Tùng, Trương Tấn Sang, Lê Khả Phiêu v.v...trong hiện tại đều lưu manh như nhau không tay nào kém tay nào.

4-Gian Ác.

Tay Cộng sản nào cũng xem mạng người như cỏ rác, nhất là mạng người gọi là đồng bào của chúng.

Khi nắm được chính quyền tay Cộng sản nào cũng trở thành tên đồ tể giết người như ngoé không hề bị lương tâm căn rứt vì sau khi qua cái khuôn đúc người của Lenine, được tái tạo lại tại địa phương của các nước Cộng sản khác, bộ phận lương tâm đã bị xóa bỏ.

Những tên như Staline, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Pon Pot đều là thủ phạm của những cái chết hành triệu người có khi hàng chục triệu như Staline và Mao Trạch Đông. Trong những tay đồ tể này, người bị thế giới văn minh "bạc đãi" đối xử bất công nhất là Pon Pot. Tay đồ tể đáng thương này trót lỡ dại giết hai triệu người Miên thì bị cả thế giới lên án, đòi phải đưa Pon Pot ra tòa án chiến tranh để trả lời về tội diệt chủng. Còn Mao Trạch Đông khi làm cho vài chục triệu người Tàu chết đói, chết bằng cán cuốc đập vào ót hay không có gì ăn cũng đều là chết, trong thời kỳ "Bước tiến nhảy vọt" và "Cách mạng văn hóa" thì thế giới văn minh không một lời phản đối, có khi một vài vị tai to mắt lớn bên phía tự do phản đối lấy lệ. Có gì đâu phải nghĩ, vì tên đồ tể Pol Pot chỉ làm chúa có bảy triệu người, lên án nó và đưa nó ra tòa không có gì đáng lo và cũng không chết thằng Tây con nào, nhưng đụng đến Mao Trạch Đông sẽ có nhiều bất lợi, nội nghe tiếng tằng hắng của hắn, một tỷ con người đã rét run lên rồị Đối với Việt Nam cũng vậy, cáo Hồ và Lê Duẫn chỉ cho chết sơ sơ năm triệu người Việt trong chiến tranh giải phóng Miền Nam (một nước độc tài đi giải phóng một nước tự do !), nếu động đến Cộng sản Việt Nam khi vào đầu tư sẽ gặp nhiều khó khăn. Nội bấy nhiêu đó cũng làm cho thế giới văn minh lạnh cẳng rồị Đừng quên đạo đức giả là giá trị phổ biến của loài người văn minh vào cuối thế kỷ 20.

Một điều làm cho người ngoài thế giới Cộng sản thắc mắc tại sao thánh tổ Cộng sản là Marx đưa ra tư tưởng cứu rỗi cho giới lao động, giới người thấp cổ bé miệng bị bốc lột, hiếp đáp, một hành động tốt của kẻ cứu khốn phò nguy mà đám hậu sinh lại đào tạo những tay thợ kiến thiết thiên đường tương lai với phần xấu xa nhất trong tâm thức con người.

Đó là vì nhân sinh quan và thế giới quan của đám phù thuỷ Cộng sản. Đối với bọn này, ai không phải là Cộng sản đều là kẻ thù giai cấp, phải tiêu diệt bằn mọi phương tiện. Với cái nhìn thế giới bên ngoài như thế, rõ ràng kẻ thù của Cộng sản quá nhiềụ Trong tâm trạng bị bao vây, lúc nào cũng có thể bị tiêu diệt, đám lãnh đạo Cộng sản cho rằng người Cộng sản muốn thắng kẻ thù quá đông đảo đó phải dùng kỷ thuật đấu tranh của Lenine phối hợp với phương châm chiến đấu “cứu cánh biện minh phương tiện”. Phương tiện nào cũng tốt miễn tiêu diệt được kẻ thù.

Trong con mắt lý thuyết gia Cộng sản, bọn tư sản ngây thơ không biết khai thác hết sức mạnh của sự nói láo, lưu manh trong đấu tranh. Nếu bên địch (tư sản) không sử dụng thì ta sử dụng những thứ đó để tiêu diệt chúng.

Thành ra không phải là một sự tình cờ khi trên phương diện quốc tế Satline, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành. v.v.. Tất cả những tên tuổi này đều giống hệt nhau về các phương diện nói láo, nuốt lời hứa, lưu manh, gian ać, giết ngươi không gớm tay.

Có một điều Lenine không tiên liệu được khi nghĩ rằng những giá trị cách mạng đó chỉ đem ra xử dụng để chống lại kẻ thù giai cấp. Khi được cấy loại (sinh tử phù) này vào đầu, nó lặng vào tiềm thức của người Cộng sản và biến thành bản chất. con người anh tạ Khi đem ra sử dụng chúng không còn phân biệt ai là Bạn ai là Thù. Vì vậy chúng ta mới thấy một nghịch lý lớn trong thế giới Cộng sản là những đồng chí đã từng sống chết với nhau khi chưa cướp được chính quyền, như Staline và Trosky, giữa Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ, họ đã sữ dụng tất cả những đòn hiểm độc để hạ nhau, những đòn mà trước đó họ dùng để đánh kẻ thù giai cấp.

Sự tàn bạo con người trong cái khuôn Cộng sản của Lenine còn mang lại hai hệ quả mà chính kẻ sáng tạo ra cái khuôn không dự báo nỗi.

Hệ Quả thứ nhất là tất cả tay Cộng sản thuần thành đều bị bệnh hoang tưởng (Panorania), không nhiều thì ít. Bọn chúng không có khả năng nhìn việc đời như nó là nó (như thị theo đạo Phật) mà nhìn lịch sử, nhìn sự biến chuyển xã hội dưới lăng kính duy vật sử quan. Bọn điên này thành thật tin tưởng hy sinh hàng chục triệu người như Mao Trạch Đông đã làm trong "bước tiến nhảy vọt", hay vài triệu người trong chính sách chiếu cố Miền Nam của Lê Duẫn, hay hai triệu người Miên của Pol Pot thì hành là để mang lại sự tốt đẹp cho những người khác.

Bọn chúng tin như đinh đóng cột là thế giới tư bản sẽ dẫy chết. Ai còn nghi ngờ điều này, nếu có cơ hội, hỏi Đỗ Mười và nhân vật đang lên Lê Khả Phiêu sẽ biết.

Hệ quả thứ nhì là tất cả tay Cộng sản thuần thành đều bị bệnh ích kỷ quá mức (Egomania). Căn bệnh quái ác này làm cho người Cộng sản bất kỳ ở đâu đều có một lòng tham vô bờ bến. Họ tham quyền và tham tiền. Tay cộng sản nào khi nắm được quyền bính trong một nước thì sãn sàng hy sinh quyền lợi quốc gia, hạnh phúc của dân mà họ cai trị cho chiếc ghế độc tôn của đảng, của phe nhóm, và của riêng cá nhân, dù cho quốc gia có bị tụt hậu ở hạng chót trong cộng đồng quốc tế cũng không quan hệ . Ở điểm này, thỉnh thoảng các kinh tế gia của Ngân Hàng Thế Giơới và Quỷ Tiền Tệ Quốc Tế hăm doạ cộng sản là nước Việt Nam sẽ bị tụt hậu nếu không chịu đẩy mạnh cãi cách. Họ không biết sự hăm doạ đó, đối với Cộng sản không hề sợ nước Việt Nam bị tụt hậu nếu ghế họ còn vững vàng là được. Hăm doạ Cộng sản không khác gì đàn khảy tai trâu, Cộng sản chỉ sợ khi sự tụt hậu dẫn đến chuyện dân chúng tổng nổi dậỵ

Người Cộng sản tham tiền đến cái mức biến tham những thành một đinh chế quốc gia để cho tay cộng sản nào cũng có cơ hội hốt của mà khỏi phí sức lao động. Trên thế giới nhà cầm quyền nào cũng tham nhũng không ít thì nhiều, nhưng khi tham nhũng trở thành một tai hoạ cho toàn xã hội như bệnh ôn dịch ngày xưa thì chỉ có thế giới Cộng sản chiếm độc quyền. Chúng ta cứ nhìn Liên Xô, Trung Cộng, Việt Nam cộng sản sẽ thấy rõ tác hại của bệnh dịch tân thời nàỵ Dân ở các nước này thường đồng hoá danh từ Cộng Sản với danh từ "tham nhủng" trong khi trò chuyện với nhau không có bóng giáng bọn chó săn công an mật vụ lãng vãng gần đó.

Trong phần suy tư giáo chủ tà giáo bắt người Cộng sản phải tin một cách tuyệt đối ba giáo điều sau đây, nếu đi ra ngoài các giáo điều này thì sự chết sẽ đến với họ.

1- Thứ Nhất, chủ thuyết Mác-Lê? là chân lý. Hồ Chí Minh đã từng nói thuyết Mác-Lê? là cẩm nang thần kỳ. Chữ cẩm nang có lẽ được Hồ lấy trong chuyện Tam Quốc lúc Lưu Bị cầu hôn Giang Tả. Lưu Bị sang Giang Đông cưới vợ là em gái Tôn Quyền, một kẻ địch chỉ muốn Lưu Bị qua Giang Đông để giết. Trước khi đi Khổng Minh giáo cho Triệu Tử Long, tướng hộ vệ Lưu Bị một cẩm nang dặn Triệu Tử Long mỗi khi gặp nguy dỡ ra xem sẽ có biện pháp thoát nguỵ Lưu Bị ở trong hang cọp không bị cọp ăn lại cướp được vợ nhờ cẩm nang đã tính toán rất chính xác.

Khi Hồ thêm chử thần kỳ sau chử cẩm nang thì ta biết Hồ tin tưởng vào giá trị của thuyết Mác-Lê? đến bực nào.

2-Thứ Nhì, Giáo Chủ tổng bí thư đảng là một con người hoàn thiện. Tất cả đức tánh tốt đẹp nhất của loài người đều hội tụ trong con người giáo chủ. Trong đạo giáo nào, bản thân của giáo chủ nào cũng được thần thánh hóa, là một người ở cõi trên xuống để cứu nhân độ thế. Trong tà giáo vô thần Cộng sản, không thể nói giáo chủ là người Trời sai xuống thế thì thần thánh hoá cách khác. Đối với giáo đồ Cộng sản, giáo chủ là hiện thân của Chân, Thiện, Mỹ. Một mẫu người hoàn thiện tuyệt đốị Trong thế giới Cộng sản, hình ảnh về Lenine, Staline đã được bọn văn nô bới trong kho tàng chữ nghĩa những chữ nói lên cái gì tốt đẹp nhất, hoàn thiện nhất để suy tôn. Nhà thi sĩ thiên tài của Việt Nam về mặt bợ đít là Tố Hữu cho ra đời những vần thơ ngu ngóc góp phần với những văn nô khác trong thế giới Cộng sản để thần thánh hóa hai giáo chủ nói trên. Trong tà giáo Cộng sản, giáo chủ thứ nhất là Marx, đời thứ nhì là Lenine, đời thứ ba là Staline, tiếp theo là các tổng bí thư kế tiếp của đảng cộng sản Liên Xô.

Hiện tượng thần thánh hoá cũng diễn ra cục bộ tại mỗi quốc gia mà cộng sản cầm quyền. Mỗi người cầm đầu một đảng cộng sản điạ phương đều được tôn lên thành bực thánh sống như Mao Trạch Đông, Kim Nhựt Thành, Hồ Chí Minh.

3-Thứ Ba, đảng là một sáng tạo hoàn thiện. Đảng viên có thể trật, tất cả đảng viên có thể trật nhưng khi những con người có khuyết tật họp lại thành đảng thì đảng lúc nào cũng đúng. Năm 1956, Võ Nguyên Giáp đứng ra xin lỗi nhân dân vì đảng viên thi hành lệch lạc ý muốn của Đảng trong cãi cách ruộng đất, bản thân Đảng thì không làm bậy bao giờị Gần đây nhất khi dân Thái Bình bị ức hiếp, bị bốc lột quá nặng qua chánh sách sưu cao thuế nặng nên nhất tề đứng lên dành quyền sống, phát ngôn viên nhà nước xác nhận có nhân dân nỗi dậy, có áp bức bốc lột, nhưng đó là lỗi của đảng viên cấp dướị Người phát ngôn viên này không nói thêm nhưng ai cũng hiểu là bản thân Đảng, một thực thể hoàn thiện thì không hề có lỗi trong vụ này !

Chúng tôi đã trình bày một biến cố cũng là một thảm hoạ cho loài người khi xuất hiện một mẫu con người mới gọi là người Cộng sản vào đầu thế kỷ 20. Những con người, với sự tin tưởng mù quáng, bị mất đi phần suy tư trong tâm thức, được trang bị những giá trị đạo đức cách mạng theo kiểu Cộng sản bị bệnh hoang tưởng hợp thành cái thế giới điên loạn, trong đó có những giá trị bình thường phổ cập của loài người đã thoát ra khỏi thời kỳ mong muội đều bị đảo ngược hết. Người Cộng sản cho thế giới điên loạn đó là thiên đàng vì họ hưởng đủ thứ lợi lộc trong đó. Người không cộng sản gọi thế giới quái đản đó là thế giới đảo ngược (le monde à L'envers), yêu nước là bán nước, liêm khiết là tham nhũng, tự do là nô lệ, chống bốc lột là bốc lột thẳng taỵ..v.v

Từ năm 1975 đến nay, ở Miền Nam có một câu nói lên hết ý nghĩa của thế giới đảo ngược: "Nói vậy mà không phải vậỵ"

Chúng ta hãy nhìn số phận của nước Việt Nam sau khi xuất hiện tà giáo Cộng sản tại Nga.

Hồ Chí Minh, Trần Phú, Lê Hồng Phong là ba con Zombi Cộng sản đầu tiên được đúc khuôn tại Liên Xô. Khi ra khỏi khuôn đúc, họ trở thành người mới về mặt tâm thức, họ không còn là người Việt Nam nữa. Họ chỉ biết có một tổ quốc Liên Xộ Tất cả việc làm của họ đều phục vụ cho Liên Xô, trong con mắt họ là cái nôi của cách mạng dẫn đến thiên đường Cộng sản trên thế giới.

Khi về nước họ tạo ra cái khuôn đúc giống hệt như cái khuôn kiểu mẫu ở Liên Xô để tạo nên một lớp người cộng sản tại điạ phương mang tên là Trường Chinh, Lê Duẫn, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Trần Quốc Hoàn.v.v..

Thế hệ người Cộng sản này sau khi qua khuôn đúc cũng trở thành người Cộng sản như các bậc đàn anh nghĩa là tay nào cũng nói láo, thất hứa, lưu manh, gian ác, bá đạo, tay nào cũng bị bệnh hoang tưởng, cũng tham lam vô độ, tất cả đều giống hệt như nhau.

Đám Zombi mới tạo này đã thành công chiếm được nước Việt Nam, đặt đất nước này dưới một chế độ thuộc điạ mới mang tên Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tuy mở miệng tự xưng người yêu nước, chúng là quan lại của Thiên Triều mới đóng đô tại điện Cẩm Linh. Thiên triều gởi chúng đến Việt Nam để cai trị và chúng không tiếc lơì nói lên lòng trung thành tánh cách bầy tôi mỗi khi có dịp.

Năm 1992, một tai hoạ xãy ra trong thế giới Cộng sản, Thiên Triều Liên Xô bị sụp đỗ, những con Zombi Việt Nam không còn được phù thuỷ hướng dẫn nữa phải tự xoay xở để sống còn. Hoàn cảnh khách quan đã biến đám Cộng sản Việt Nam thành một tổ chức Mafiạ Đám âm binh Cộng sản tuy miệng vẫn còn nói Xã Hội Chủ Nghĩa, trong thực tế không còn tin tưởng đến thiên đường Cộng sản hay là những trò bịp khác của Mẫu quốc Liên Xộ Mối lo nghĩ chính của chúng là làm thế nào để giử chiếc ghế cai trị độc tôn của người Cộng sản càng lầu càng tốt để hốt hết tài sản của dân tộc Việt Nam. Để mưu sanh thoát hiểm, người Cộng sản đưa ra chánh sách đổi mới trong đó kinh tế đã được thả lõng phần nào để cho dân được tự do mưu sinh hầu tháo bớt ngòi nỗ tổng nỗi dậy đã bắt đầu trở than`h nỗi ám ảnh của Cộng sản. Về mặt chính trị, đảng Cộng sản vẫn nắm chặt, chỉ cho dân hưởng tự do chính trị trên mặt giấy xuyên qua bản hiến pháp mới năm 1992.

Chúng ta thấy cái khuôn đúc người mới của Cộng sản là một cái khuôn máy tôi tân. Tuy nhiên máy là sản phẩm của con người với tánh chất bất toàn nên máy nào cũng chứa trong các cơ phận vận hành một vài khuyết tật.

Trên cấp thế giới, khuyết tật trong cái khuôn đúc người là bộ phận trung thành. Với đa số là nó chạy đều đặn nhưng khi gặp những cá nhân như Mao Trạch Đông, Tito, thì bộ phận trung thành bị trục trặc. Hai tay nói trên, tuy có đủ đức tánh trong đạo đức cách mạng Cộng sản nhưng không còn trung thành với giáo chủ và giáo ngữ trong điện Cẩm Linh. Chúng biến thành hai tên phản đồ có tên tuổi, vai vế lớn trong tà giáo.

Tại Việt Nam, cái khuôn do Hồ Chí Minh và đồng bọn mang về đã làm việc tốt đẹp với đa số. Nhưng vớI một thiểu số, cái khuôn máy đúc này lại gặp trục trặc. Vì thế trong thế giới Cộng sản tại Việt Nam có hai hạng Cộng sản không thuần thành, có thể gọi là Cộng sản phản tĩnh.

Hạng thứ nhất, những người theo cộng sản bị hấp dẫn bở ý tưởng tốt đẹp bình đẳng xã hội có lẽ được hướng dẫn bỡi ý tưởng khắc tinh của cái xấu, nên tâm thức của hạng người này tự động đề kháng với cái khuôn đúc (chủ thuyết Mác-Lê). Hậu quả là có một số hết sức ít người Cộng sản Việt Nam còn giữ được chất người Việt Nam không trở thành Zombi.

Hạng thứ nhì, do những cơ duyên nào đó (hiểu theo nhà phật), người Cộng sản như bừng tĩnh sau một cơn ác mộng. Trước kia họ là người Cộng sản thuần thành, đầy dẫy tội lỗị Nay họ thấy tất cả sai lầm của Mác-Lê?, cũng như sai lầm khi dấn thân vào thế giới Cộng sản. Những người may mắn này trở lại thành người Việt Nam bình thường.

Cũng nên kể thêm một chủng loại Cộng sản khác xuất hiện rất nhiều khi đổi mớị Đám này vào đảng để "theo đóm ăn tàn." Họ không tin tưởng vào thánh kinh Mác-Lê?, họ không bị cái khuôn đúc triệt tiêu cá tánh. Tuy nhiên vì "gần mực thì đen", đám này sống và hoạt động với đám Cộng sản thuần thành nên bị lây không ít thì nhiều những đức tánh của đạo đức cách mạng kiểu Cộng sản. Tánh xấu phổ biến trong đám cộng sản cơ hội này là nói láo và lưu manh.

Nhóm Thiện Chí

Còn tiếp ...



Thật vậy, dân tộc Việt Nam hãy can đảm đứng lên để lật qua những trang sử cộng sản đẫm máu và đau thương. Đã quá trễ rồi. Ngày nào còn cộng sản, thì còn chết chóc, tù đày, tự do, nhân quyền còn bị chà đạp.
Nhà cầm quyền cộng sản, hơn lúc nào hết, luôn buộc người dân lo nghĩ đến chuyện miếng ăn, cái mặc. Cái bụng lúc nào cũng phải cảm thấy còn đoi đói, chưa no. Và người dân thì thiếu thốn nhu yếu phẩm, lo chạy gạo từng bữa. Ðủ hôm nay thì thiếu ngày mai, hay được nồi cơm sáng, thì lại chưa có nồi cơm chiều. Cuộc đời cứ quần quật lo đói rách như thế, thì xin hỏi, còn chi thì giờ mà nhân dân nghĩ đến tranh đấu, hoặc đòi hỏi tự do dân chủ nhân quyền?
Cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh từng dạy: “Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình thì càng ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Còn dân thì ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mà mong đợi trông cậy ở vua ở quan, giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay một người, hay một chính phủ muốn làm sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không kiểm xét, thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường. Anh chị em đồng bào ta đã hiểu thấu các lẽ, thì phải mau mau góp sức lo toan việc nước mới mong có ngày cất đầu lên nổi”.
"The religion of the future will be a cosmic religion. The religion which is based on experience, which refuses dogmatism. If there's any religion that would cope with modern scientific needs it will be Buddhism." Albert Einstein

Tôn giáo trong tương lai sẽ là tôn giáo của vũ trụ. Tôn giáo này dựa trên kinh nghiệm và không chấp nhận chủ nghĩa giáo điều. Nếu có một tôn giáo nào tương thích với khoa học hiện đại, đó chính là Phật Giáo.




Bạn Ơi Hãy Cùng Nhau Đấu Tranh Cho Cuộc Sống Của Mình & Tương Lai Của Con Cháu Mình !!!



Nhân Dân Cần Nhận Diện Bộ Mặt Thật Của Giới Cầm Quyền. Phải Hành Động Cụ Thể Đối Với Bọn Chúng !!!



Chỉ Mặt, Nhận Diện Bọn Cán Bộ Óc Đất, Lũ Công An Lưu Manh, Đám Quan Chức Tham Nhũng, Tay Sai !!!

Công Nhân Bị Đánh Đập Tàn Nhẫn, Dã Man !!!


Followers