Hoa Kỳ là một siêu cường thiếu tinh tế, có nền văn hoá rất thô thiển và chẳng biết gì về lịch sử... nên trở thành mối bất an vì phản ứng phiêu lưu của một Tổng thống ngang ngược và nông cạn. Đấy là kết luận của Tây Âu. Chìm sâu bên dưới tâm lý đó là ý chí – ý muốn dũng mãnh – thoái thác trách nhiệm, trong và ngoài khuôn khổ của Minh ước NATO. Với Âu Châu này, sự thịnh vượng là mục tiêu tối hậu, nhưng thịnh vượng kiểu Âu Châu vẫn cao cả hơn tinh thần lý tài thực dụng của tư bản Mỹ! NGUYỄN XUÂN NGHĨA |
Xứ Na Uy Đòi Chiếu Bí Hoa Kỳ
Khi Tổng thống Barack Obama được dựng đầu dậy với tin mừng là đã đoạt giải Nobel Hoà bình 2009, có lẽ ông phải suy nghĩ rất nhanh về hậu quả. Phải chăng là quá nhanh nên nói sảng, rằng con gái ông đã báo tin này, và tin mừng đó đến cùng ngày sinh nhật với con chó nuôi trong nhà! Hay là ông tìm ra cách trả lời thâm thúy cho một gói quà khó nuốt tựa khúc xương?
Chủ tịch Thorbjorn Jagland, người chính thức công bố
giài Nobel Hòa Bình 2009 cho TT Obama ngày 9 tháng 10, 2009.
DANIEL SANNUM LAUTEN/AFP/Getty Images)
giài Nobel Hòa Bình 2009 cho TT Obama ngày 9 tháng 10, 2009.
DANIEL SANNUM LAUTEN/AFP/Getty Images)
Khác với các giải Nobel kia, như Y khoa, Vật lý, Hoá học và cả Văn chương hay Kinh tế là do Hàn lâm viện Thụy Điển tuyển chọn, giải Nobel Hoà bình lại do Quốc hội Na Uy tuyển chọn. Người lập giải là ông Alfred Nobel đã quyết định như vậy. Quốc hội Na Uy đề cử một ủy ban năm người để thi hành việc tuyển chọn. Và nhờ Nobel 2009 cho Obama, ủy ban này bỗng nổi danh như cồn. Trước đó, chẳng ai biết năm nhân vật mờ nhạt này là những ai!
Đó là ông chủ tịch Thorbjorn Jagland, người chính thức công bố kết quả vào tuần trước. Ông là Chủ tịch Quốc hội Na Uy (gọi là Storting), nguyên Thủ tướng và Ngoại trưởng, thuộc đảng Lao động bên cánh tả. Các nhân vật còn lại là Kaci Kullman Five, nguyên Dân biểu và Chủ tịch đảng Bảo thủ; là Sissel Marie Ronbeck, nguyên Dân biểu của đảng Dân chủ Xã hội; Inger-Marie Ytterhorn, nguyên Dân biểu và đương kim cố vấn của đảng Tiến bộ theo xu hướng thủ cựu; và Agot Valle, đương kim Dân biểu đồng thời cũng là phát ngôn viên về đối ngoại của đảng Xã hội Thiên tả (Socialist Left Party). Nói vắn tắt là đa số hai phần năm chính khách thiên tả.
Là chính khách, họ lấy quyết định chính trị, dù có còn ở trong Quốc hội Storting hay không. Và quyết định của họ có tính chất tiêu biểu cho chính trường Na Uy. Vì ý muốn của chính ông Alfred Nobel từ cả trăm năm trước, giải Nobel Hoà bình là kết quả của một hành động chính trị và vì vậy, thường gây bất ngờ, hoặc tranh cãi.
Một Tổng thống đương nhiệm của Mỹ được Nobel Hoà bình năm 1906 là Theodore Roosevelt, chính thức là vì ông đã dàn xếp đàm phán Nga Nhật để kết thúc chiến tranh giữa hai nước. Việc dàn xếp ấy của Roosevelt thực ra nhắm vào việc ngăn chặn Nhật Bản không thừa thế lấn lướt tại Á châu Thái bình dương, một quyết định chính trị khiến Nhật Bản bực bội không ít. Hoa Kỳ thời đó còn muốn nhảy vào can thiệp để bênh vực Đế quốc Nga! Chuyện vãn hồi hòa bình Nhật-Nga chỉ là phụ thuộc…
Cũng thế, quyết định trao giải cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ năm 1973 là hành động chính trị, bất chấp sự thể là thành tích của hai người – Hiệp định Paris – dẫn tới việc Việt Nam Cộng Hoà bị bức tử hai năm sau. Giải Nobel Hoà bình cho Yasser Arafat và Yitzhak Rabin cũng thuộc loại bất thường và gây tranh luận về chính trị vì mâu thuẫn giữa Israel và Palestine vẫn chưa được giải quyết… Chúng ta còn nhiều thí dụ khác về một giải thưởng chính trị, như việc trao giải cho Jimmy Carter (2002), cho Chủ tịch Nguyên tử lực cuộc IAEA của Liên hiệp quốc là Mohammed ElBaradei năm 2005, cho nguyên Phó Tổng thống Al Gore năm 2007, là những quyết định có mục tiêu tấn công Tổng thống đương nhiệm của Mỹ khi đó là George W. Bush…
Những chuyện ấy, ai cũng biết và bàn tán trong suốt tuần qua. Nhưng vấn đề không chỉ có vậy.
Khi đặt ra giải thưởng và đề nghị các chính trị gia Na Uy trao giải, có thể là Alfred Nobel cũng lấy một quyết định chính trị – sự thật ấy, ít ai nhìn ra – và lại cho xứ Na Uy nhỏ bé cơ hội tạo ra ảnh hưởng lớn lao hơn thực lực của mình. Vương quốc Na Uy bằng cái dải áo ở miền cực Bắc Âu Châu chỉ vỏn vẹn có năm triệu dân và chẳng có ảnh hưởng gì khả dĩ gọi là chiến lược. Nếu có nằm kẹp giữa Nga và Đức thì xứ này chỉ là phận chư hầu bị cả hai cường quốc chà xát. Nếu ở sát nách Trung Quốc thì cũng hùng mạnh như... nước Lào.
Năm chính khách Na Uy có thẩm quyền chọn người đoạt giải là năm nhân vật hoàn toàn vô danh tiểu tốt, cho đến khi trao giải theo kiểu độc đáo như vừa qua. Nếu họ có chọn Obama thì ta chẳng ngạc nhiên vì đấy là cách quảng cáo hay nhất cho nước Na Uy. Vì giải thưởng mà thiên hạ sẽ chú ý đến xứ này. Và giải Nobel Hoà bình trở thành vật trang trí! Tội nghiệp cho Nobel.
Nhưng, xuyên qua giải thưởng và vượt khỏi khuôn khổ Na Uy, người ta còn có thể nghĩ tới nhận thức chung của các nước Âu Châu về Obama. Là chuyện mình nên tìm hiểu.
Nói về Âu Châu thì Liên bang Nga hay các nước Đông Âu đều không coi cậu bé quàng khăn đỏ Obama này là lãnh tụ đáng kể. Họ không bị “hội chứng Obamê”. Từ hai giác độ khác nhau, Vladimir Putin hay các lãnh tụ Ba Lan, Tiệp và Khắc đã nhiều lần cho thấy như vậy. Kể cả Vaclav Havel hay Lech Waleza là những người hiếu hòa mà quyết liệt đấu tranh cho dân chủ và công khai phàn nàn về sự ngây thơ đầy nguy hiểm của Obama trước đòn phép của Putin tại Trung Âu.
Nhưng ngoài miền Đông ấy, các nước Âu Châu khác ở miền Tây và miền Bắc thì không che giấu cảm tình của họ với tân Tổng thống Mỹ. Các chính khách Na Uy chỉ ngả theo xu hướng đó của Âu Châu. Vì sao lại như vậy? Vì Obama là người được việc cho họ.
Toàn cõi Âu Châu này, từ Đại tây dương vào tới rặng Urals, đã tự chém giết nhau nhiều lần trong thế kỷ 20 và ra khỏi Thế chiến II với sự kiệt quệ nghèo khốn. Kết cuộc là một khu vực rộng lớn đã thành vùng tranh chấp ảnh hưởng giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết. Vận mệnh – trước hết là kinh tế và an ninh Âu Châu – nằm tại Washington và Moscow. Trong khi Đông Âu thu mình dưới đế giày đinh của Liên bang Xô viết thì cả một khu vực Tây Âu đã được tái thiết và phát triển, rồi được bảo vệ suốt thời Chiến tranh lạnh nhờ sức mạnh rất thiếu tế nhị của Hoa Kỳ! Càng khiếp sợ Liên Xô thì càng cần nương tựa vào Mỹ và càng thầm oán trách một nước đồng minh thiếu văn hoá và có lợi thế là được một đại dương rộng lớn bảo vệ...
Thói thường, người ta không thích ân nhân vì ân nghĩa ấy nhắc tới sự yếu kém của mình.
Chưa kể là Hoa Kỳ thường dũng mãnh đối đầu với Liên Xô khiến cả Tây Âu khiếp vía. Lỡ có gì thì mình ưu tiên chết trước. Khẩu hiệu “thà đỏ hơn chết” của dân Đức dưới thời Ronald Reagan cương cường có phản ảnh tâm lý chung của các nước Tây Âu. Chẳng những vậy, nước Mỹ có hùng hổ đối đầu với khối Xô viết ở bất cứ nơi đâu – Cuba hay Việt Nam hay Trung Đông, Phi Châu – Tây Âu cũng sợ bị vạ lây. Sáu chục sư đoàn của Hồng quân Liên Xô ở bên kia biên giới khiến Âu Châu nhìn mọi sự xoay trở của Hoa Kỳ trên thế giới như một án treo lơ lửng ở trên đầu mình.
Ấn tượng ấy đã kéo dài nhiều thập niên cho tới khi Liên Xô tan rã, Chiến tranh lạnh kết thúc, nước Đức được thống nhất và Đông Âu được giải phóng. Các nước Đông Âu thì vui mừng và cảm ơn Hoa Kỳ thời Reagan-Bush (1981-1992) chứ các nước Tây Âu thì thở ra nhẹ nhõm: từ nay khỏi cần nép mình dưới sự bảo bọc của Hoa Kỳ nữa!
Sau Chiến tranh lạnh, từ 1991 trở đi, các nước Âu Châu đã thịnh vượng và hết sợ chết nên ôm ấp một giấc mơ thịnh vượng trong một thế “Tam quốc” – một thế giới đa cực giữa Nga-Mỹ-Âu – trong đó, Âu Châu sẽ xây dựng những định chế thống nhất để trở thành siêu cường đa quốc và có chủ trương riêng về thiên hạ sự. Thời hoàng kim ấy chỉ kéo dài có mười năm – chuyện Liên bang Nam Tư tan rã hay NATO phải nhảy vào Kosovo chỉ là những vấp váp vụn vặt!
Vụ khủng bố 9-11 năm 2001 bỗng đảo lộn tất cả!
Dù có thiện cảm với dân Mỹ, các nước Tâu Âu đều nghĩ rằng George W. Bush phản ứng quá mạnh. Sự thật thì Chính quyền Bush có tham khảo các đồng minh Âu Châu về từng chuyện, kể cả quyết định khai mở chiến dịch Iraq, nhưng Tây Âu hèn nhát chối phăng chuyện đó, và còn chối mạnh để mong là khủng bố sẽ không tấn công vào ruột gan của họ. Sự lật lọng củaNgoại trưởng Pháp Dominique de Villepin trước diễn đàn Liên hiệo quốc hay những quan hệ kinh tế sâu đậm của Đức với cả Iran và Iraq đã không được truyền thông và dư luận Âu Châu nhắc tới. Chỉ một thái độ ngang tàng của tay cao bồi Texas trong tòa Bạch Cung đủ là lý do. Truyền thông thông ngôn của Việt Nam – tức là phiên dịch mà khỏi cần khả năng xét đoán độc lập – cũng suy luận tiếp như vậy!
Hoa Kỳ là một siêu cường thiếu tinh tế, có nền văn hoá rất thô thiển và chẳng biết gì về lịch sử... nên trở thành mối bất an vì phản ứng phiêu lưu của một Tổng thống ngang ngược và nông cạn. Đấy là kết luận của Tây Âu. Chìm sâu bên dưới tâm lý đó là ý chí – ý muốn dũng mãnh – thoái thác trách nhiệm, trong và ngoài khuôn khổ của Minh ước NATO. Với Âu Châu này, sự thịnh vượng là mục tiêu tối hậu, nhưng thịnh vượng kiểu Âu Châu vẫn cao cả hơn tinh thần lý tài thực dụng của tư bản Mỹ!
Trong khi Bush táo bạo muốn đi tiền và nhấn tới, Tây Âu chỉ muốn quay bài bỏ chạy. Nhưng vẫn ngoái cổ về dạy dỗ nước Mỹ về sự khôn ngoan sâu sắc của Âu Châu muôn thuở...
Bây giờ, nước Mỹ đạo có lãnh đạo mới, một nhân vật tinh tế đầy nét văn hoá hùng biện và đã đấm ngực thế thốt là từ nay làm gì cũng sẽ tham khảo ý kiến Âu Châu. Họ bèn bế cậu bé lên bệ để nước Mỹ từ nay sẽ ngoan ngoãn cư xử đầy vẻ tương kính với các đồng minh. Giải Nobel là vòng nguyệt quế tất nhiên, mặc dù Obama mới tuyên thệ nhậm chức có 11 ngày là đã được tuyển vào danh sách 205 nhân vật hay tổ chức có thể được giải. Na Uy và các nước Âu Châu không cần thành tích của quá khứ mà chỉ cần một hy vọng vào tương lai.
Đấy là ý nghĩa của Giải thưởng vừa bị phá sản vì sự lộ liễu quá trắng trợn của một hành động chính trị. Còn lại?
Còn lại, Barack Obama đang sống trong thế kỷ 21 rất lạnh lùng tàn khốc, và phải xử trí với các lực lượng khủng bố tại Afghanistan, chế độ hung đồ tại Iran hay lãnh tụ gian hùng tại Liên bang Nga. Ông phải bảo vệ quyền lợi của nước Mỹ hơn là hư danh do Âu Châu quàng lên cổ mình. Các thành phần đối thủ của Mỹ coi chuyện Nobel Hoà bình là trò vặt. Và rất vui khi thấy Obama nay đã có sợi dây xích lóng lánh trên cổ. Obama có dám tháo sợi dây đó hay không mới là vấn đề đáng theo dõi…[NXN]
NGUYỄN XUÂN NGHĨA
No comments:
Post a Comment