Đã từ lâu tại Việt Nam câu hỏi đặt ra, "Định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa là gì?" Nhưng bộ chính trị của trung ương đảng lại chưa hội đủ lý luận trả lời... Vì không thấy lên tiếng... nên tôi tạm dùng phương pháp luận trong ngành học khích lệ tổ chức (organizational motivation) của Abraham Maslow để trả lời thay cho đảng ta:
Mô hình Maslow
Trước những biến chuyển dân chủ của thế giới, những cuộc vùng dậy của nhân dân bị trị, chống áp bức bất công đã khiến cho tập đoàn lãnh đạo cộng sản Việt Nam hoảng sợ, và cải tổ kinh tế. Giải tỏa nghèo đói bất mãn cũng đồng nghĩa là đảng muốn làm xoa dịu nhân dân để bảo toàn được quyền lực cai trị.
Người cộng sản thấy rằng nguyên lý độc tài áp bức không mang lại thịnh vượng quốc gia và hòa bình thế giới. Ngoài ra, độc tài áp bức làm xói mòn niềm tin quần chúng. Ðộc tài áp bức còn cản trở phát huy sáng tạo, khuyếch trương năng lực sản xuất và phát triển kinh tế xã hội. Nhất là vào thời đương đại, sự phát triển kinh tế xã hội lại đòi hỏi nhiều tính năng động sáng tạo và uyển chuyển của toàn dân.
Chế độ độc tài kinh tế lại trở thành phương tiện khủng bố đàn áp của nhà cầm quyền. Thành qủa phát triển kinh tế trong xã hội cộng sản không nhất thiết nhân dân được hưởng, vì bất cứ lúc nào nhà nước cũng có thể tước đoạt, thâu dụng toàn bộ tài sản của dân. Theo lý thuyết kinh tế, một cơ sở độc quyền có khả năng thâu dụng toàn bộ gía trị thặng dư. Một chế độ độc quyền cũng có khả năng đó. Bởi thế, phát triển kinh tế như tại Việt Nam hiện nay chưa phải là yếu tố bảo đảm cho người dân được hạnh phúc, cho nhân quyền được tôn trọng, và dân quyền được thực thi.
1. Ðịnh hướng xã hội chủ nghĩa là gì?
Có thể đảng cộng sản Việt Nam nghiên cứu phương pháp luận của Abraham Maslow (1908-1970), một ngành học khích lệ tổ chức (organizational motivation) phân loại nhu cầu con người (hierarchy of needs) trên 5 bậc thang thứ tự ưu tiên. Từ đó, ban chấp hành trung ương đảng mang ra áp dụng vào đường lối cai trị bằng những chính sách độc tài kìm kẹp nhân dân theo mô hình Maslow.
a. Mô hình Maslow là gì?
Người cộng sản lý luận rằng khi muốn cai trị được nhân dân, thì trước tiên cần sử dụng một chế độ mệnh danh là xiết hầu bao. Nhắm cái bao tử của dân mà chỉ huy lãnh đạo. Ðó là định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cũng theo lý thuyết kinh tế, cái bụng bảo cái chân cái tay. Nhà cầm quyền cộng sản, hơn lúc nào hết, luôn buộc người dân lo nghĩ đến chuyện miếng ăn, cái mặc. Cái bụng lúc nào cũng phải cảm thấy còn đoi đói, chưa no. Và người dân thì thiếu thốn nhu yếu phẩm, lo chạy gạo từng bữa. Ðủ hôm nay thì thiếu ngày mai, hay được nồi cơm sáng, thì lại chưa có nồi cơm chiều. Cuộc đời cứ quần quật lo đói rách như thế, thì xin hỏi, còn chi thì giờ mà nhân dân nghĩ đến tranh đấu, hoặc đòi hỏi tự do dân chủ nhân quyền?
Căn cứ theo phân loại nhu cầu con người, Maslow đã giúp chúng ta giải thích kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên 5 nấc thang của ông. Bậc thang thấp nhất mà cũng là ưu tiên cao nhất của con người, đó là nhu cầu thể xác (physiological needs) gồm có đồ ăn, thức uống, áo quần, sinh lý cho đến không khí mà con người phải thở, hay sợ hãi khi bị đau đớn. Ưu tiên hai là nhu cầu cảm nhận an toàn (safety and security needs). Ưu tiên ba là nhu cầu được thương yêu và kết tình bạn hữu (love and belonging needs). Ưu tiên bốn là nhu cầu tôn trọng nhân phẩm (esteem needs), tức được tôn trọng từ chính bản thân và nhân quần xã hội. Ưu tiên năm là ưu tiên thấp nhất, tức nhu cầu tự thực hiện (self actualization needs).
b. Mô hình Maslow được đảng cộng sản Việt Nam áp dụng như thế nào?
Nhu cầu con người có thể nhận diện, có thể định nghĩa là ước muốn trở thành chính mình, và trở thành tất cả những gì mình muốn trở thành. Nhưng yếu tố cần thiết để đạt trình độ tự thực hiện, là con người cần làm chủ với đời sống của mình trong xã hội, và cũng làm chủ lấy cấu trúc chính trị chi phối đời sống của mình, tức đời sống dân chủ.
Học thuyết Maslow bao gồm hai hệ luận nhằm giải thích, tiên đoán hành vi của con người. Một là, con người cố gắng vượt qua những thứ tự ưu tiên để đạt đến mức độ cao, đó là có thể thực hiện. Hai là, trong trường hợp phải chọn lựa giữa nhiều nhu cầu, thường thường, nhu cầu thuộc ưu tiên cao thì được chọn trước.
Ví dụ, người thường dân thì phải lo ăn, lo uống, lo cho sự an toàn bản thân mình, trước khi nghĩ tới nhu cầu tự thực hiện.
Chính cái điểm trọng yếu trên đây trở quy luật làm khuôn vàng thước ngọc giúp cộng sản điều nghiên đưa vào đường hướng cai trị căn cứ theo nhu cầu thể xác, để có thể kìm kẹp nhân dân nằm trong nấc thang thấp nhất, và dễ thực hiện thành công nhất. Ðảng chỉ việc dùng kinh tế làm phương tiện đàn áp nhân dân, tức kinh tế chỉ huy chính trị. Từ đó đảng kìm hãm nhân dân trong những nhu cầu thể chất như cái ăn, cái mặc, cái ngủ… và những vấn đề sinh lý thường xuyên đòi hỏi của mọi con người. Vậy thì, còn hơi sức đâu, thời gian đâu mà nhân dân đứng lên đấu tranh dành lại nhân quyền tự do dân chủ, như bảng thang 5 gọi là nhu cầu thực hiện? Chế độ hộ khẩu là một ví dụ điển hình cho bảng thang một, mô hình Maslow.
Từ mô hình Maslow, đảng cộng sản Việt Nam đã nắm trọn hầu bao của toàn dân, thì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ tiến nhanh tiến mạnh và tiến vững chắc lên thang hai. Thay vì nâng cao dân trí, thay vì giáo dục đào tạo, thay vì nâng cao đời sống dân nước, thì ngược lại, đảng dồn tài nguyên quốc gia vào việc củng cố quân sự quốc phòng, mua vũ khí.
Cũng theo bảng thang hai Maslow, người cộng sản Việt Nam tin tưởng rằng dân nghèo nước mạnh, và đảng phải có nhiệm vụ tạo ra sức mạnh bằng những dự án mua vũ khí, súng đạn hiện đại của Nga tới hàng tỷ Mỹ kim hàng năm. Theo tờ báo kinh tế The Economist, trong năm 2006, Hoa Kỳ có tổng thu nhập quốc dân (Gross National Product) là 13,18 ngàn tỷ US dollars, và chi tiêu 5.5% cho ngân sách quốc phòng, đang khi, Việt Nam chỉ có 57 tỷ USD GNP mà chi tới 10.6%. Lại có nguồn tin trong nước cho biết Việt Nam đã chi dùng gấp đôi cho ngân sách quốc phòng tức 20%, chớ không như con số báo cáo đưa ra.
Căn cứ bảng thang Maslow và qua bản tin Việt Nam mua vũ khí của Nga, chúng ta thừa nhận rằng đảng cộng sản có công dẫn dắt dân tộc đi lên từ thang một, nhu cầu thể xác, mà tiến tới thang hai là nhu cầu an toàn. Ðây cũng là thành quả to lớn mà toàn đảng, toàn quân, và toàn dân đã liên hoan ăn mừng trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.
Ðảng cộng sản xưa nay cai trị bằng ba biện pháp hỗ tương. Một là, đảng chủ trương việc vận động tâm lý quần chúng, phát động chiến tranh nhân dân và mang đến thành qủa là cướp được chính quyền. Ngày nay, đảng vẫn chủ trương tiếp tục tác động tâm lý quần chúng nhân dân bằng khẩu hiệu, bằng hứa hẹn, và truyền bá chủ thuyết Mác Lê… Hai là, đảng phải khủng bố đe dọa quần chúng để hủy diệt những mầm mống chống đối. Ba là, đảng sẵn sàng mềm mỏng để xoa dịu những bất mãn của quần chúng. Ðảng thừa biết rằng những nhu cầu đòi hỏi của quần chúng nhân dân như tự do dân chủ nhân quyền là thang năm, nhu cầu thực hiện dân chủ của Maslow.
Vậy thì những sự rình rập của công an khu vực, hay những vụ đấu tố thanh trừng của tòa án nhân dân, dầu rằng đảng có bước qua thang hai, nhu cầu an toàn. Ðảng lại phải đương đầu với thang ba là nhu cầu yêu thương, được yêu thương và có thân nhân bạn bè thân thuộc yêu thương. Nếu như người Hồi giáo dị ứng trước những biếm họa Mohamet, thì người cộng sản lại dị ứng mỗi khi nhắc tới chữ yêu thương.
Lịch sử chứng minh rằng những chiêu bài vì dân vì nước, độc lập tự do, giải phóng dân tộc, chống Mỹ cứu nước, thống nhất lãnh thổ… chẳng qua là để thực hiện chủ nghĩa cộng sản tam vô. Ðối với những người khi có chủ trương vô gia đình thì làm gì có dân tộc, có đồng bào, mà có yêu thương… Và đã chủ trương vô tổ quốc, thì làm gì có hy sinh để mà giải phóng.
Yêu thương là một cái tát vào mặt chế độ cộng sản, là thang ba của Maslow. Nhân dân Việt Nam từ ngàn xưa đã có nếp sống với tinh thần thể hiện Ðồng Bào, đồng là cùng và bào là bọc, tức anh em bình đẳng và thân thương trong Một Bọc Trăm Con. Một là trăm và trăm là một. Mình sống vì mọi người và mọi người cũng vì mỗi người là Bọc Mẹ Trăm Con thể hiện là Con Cháu Tiên Rồng.
Nhu cầu thang ba như nói trên, thì coi như Hồ Chí Minh và Cộng Ðảng rớt đài, đã thua dân tộc Việt Nam. Bởi vì trong một xã hội chỉ xây dựng trên nguyên lý đấu tranh giai cấp, trên hận thù nghi kỵ lẫn nhau, lừa đảo nhau… Hơn nửa thế kỷ cầm quyền mà đảng chưa lên được thang ba, thì muốn tiến tới thang năm Maslow chắc chắn đảng sẽ phải mất hàng nửa thiên niên kỷ. Như không lên thang Maslow thì người cộng sản đành dùng ngón đòn tây độc Âu Dương Phong trong chuyện Kim Dung, vì tẩu hỏa nhập ma chóng mặt mà phải lộn ngược gọi là cáp mô công. Do đó mà có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðịnh hướng xã hội chủ nghĩa lại sinh ra quái thai “thắt lưng buôc bụng (tighten one’s belt).”
2. Thắt lưng buộc bụng
Lý thuyết kinh tế nói rằng, thắt lưng buộc bụng hôm nay, để ngày mai thế hệ con em sung sướng.
Chính sách phát triển kinh tế mà người cộng sản chủ trương, tiến hành theo hai giai đoạn. Một là, đảng chú tâm phát triển ngành kỹ nghệ nặng. Hai là, đảng sau đó từ từ chuyển sang các ngành như sản xuất tiêu thụ. Ðầu tiên đảng kêu gọi nhân dân thắt lưng buộc bụng, buộc cỡ nào cũng buộc để mà sau cùng là có thể có dư dật. Nếu qủa thật chính sách kinh tế cộng sản này thành công, thì trong giai đoạn phát triển kỹ nghệ nặng, toàn dân đã biến thành vô sản chân chính, thiếu thốn đủ mọi thứ, gọi là nhu yếu phẩm. Không gạo mà dùng bo bo mì lát bắp đá. Không giầy mà đi dép râu cụ hồ. Và không còn nhu yếu phẩm đến nỗi cán bộ cộng sản cao cấp cũng phải dùng băng vệ sinh nữ giới mà thay khẩu trang, bịt miệng chống bụi trong lúc chạy Honda.
Kinh tế cộng sản, đúng lẽ ra, vẫn tiến nhờ sự gia tăng sản xuất kỹ nghệ của toàn dân. Nhưng thực tế, tài liệu Hội Ðồng Tương Trợ Kinh Tế Cộng Sản (Council for Mutual Economic Assistance) thì sản lượng thuần tịnh quốc gia (net national product) chỉ tăng 3.2% trong giai đoạn 1981-1987. Vì hầu hết các tài liệu cộng sản báo cáo bớt đi mức độ lạm phát trong việc tuyên truyền, bởi thế, sự phát triển kinh tế thấp hơn hoặc đình trệ. Kết qủa, người dân thắt lưng buộc bụng đã sống qua vài thế hệ mà vẫn chưa thấy ngày mai ăn no mặc ấm, chưa thấy làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu.
Theo tài liệu của Liên Hiệp Quốc ước tính tổng sản lượng quốc gia chia đều theo đầu người tại Việt Nam từ năm 1989 là $175US đến năm 2005 là $475US. Thực tế, chính sách thắt lưng buộc bụng của kinh tế cộng sản được coi như không đúng.
3. Hy sinh đời bố củng cố đời con
Thi hào Nguyễn Du không biết sao lại thốt ra trong Kiều: Một liều thì ba bảy cũng liều. Ngay lập tức, người cộng sản chớp câu nói “liều” mà áp dung vào việc làm kinh tế xã hội chủ nghĩa là “hy sinh đời bố củng cố đời con”. Nhà kinh tế xã hội chủ nghĩa Mai Văn Dâu là một ví dụ điển hình. Vì mọi người thấy rằng phương pháp tổ chức kinh tế chỉ huy, và phủ nhận quyền tư hữu khó mà đạt được khả năng tối thuận (pareto efficiency). Trước sau gì định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ đi tới tình trạng hoang phí đình trệ. Thôi thì liều, hy sinh đời bố củng cố đời con… rồi trước sau cũng được đảng cho phép hạ cánh an toàn.
Vì phủ nhận quyền tư hữu, nên kinh tế phải song hành với chính trị. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chính trị độc tài áp bức là một vấn đề bất khả phân. Bởi cứ hễ là người thì ai cũng có nhu cầu, có khuynh hướng tư hữu, có thành quả do chính mình sản xuất. Vì thế định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm tước đoạt tư hữu, kiểm soát không cho ai tư hữu để nhân dân sớm trở thành vô sản chuyên chính.
Công hữu, giờ đây lại sản sinh ra nhu cầu mới và cần có cơ năng điều hành, tức kinh tế tập trung do đảng chỉ đạo. Từ đó lại dẫn tới, bộ máy tập trung kinh tế và bộ máy lãnh đạo chính trị phải là một. Và khi có kinh tế nhiều, thì có phương tiện khủng bố đàn áp nhiều. Như lời Lenin từng nói “Tự do thì tốt nhưng độc tài tốt hơn” (Freedom is good but controll is better).
Ðiều này đã khiến cho nhiều nhà khoa bảng lầm tưởng rằng, hễ cứ phát triển kinh tế thì áp bức nhân quyền được giảm dần, có lẽ nó chỉ đúng với cái thể chế độc tài không cộng sản. Bởi kinh tế là phương tiện của nhà cầm quyền dùng trong đại cuộc thực hiện độc tài và áp bức nhân dân.
Qua những cuộc cải cách ruộng đất hay cải tạo thương nghiệp thì mục tiêu của đảng là phải phế bỏ quyền tư hữu mà dành lại khả năng quyền lực chính trị từ tay nhân dân. Từ đó, đảng có thể tập trung quyền lực chính trị trong một chế độ chuyên chính vô sản để tạo ra bạo lực. Những lớp nông dân, công nhân, hay trí thức tư sản bị mất hết của cải tài sản và quyền lực chính trị, thì dễ bị khống chế bởi các bí thư đảng ủy, trong hệ thống kiểm soát hộ khẩu và bình công chấm điểm. Toàn dân lúc này chỉ còn được ăn lưng lửng bao tử, và lúc nào hay bất cứ cái gì cũng thiếu thốn. Ðó là chế độ nắm hầu bao để chỉ huy.
Trong tay người dân giờ đây không còn có tài sản, không còn có tiền, không còn có vũ khí, cho nên họ dễ bị cô lập trong hệ thống công an. Ngược lại với chế độ dân chủ, nông dân hay công nhân dù có nghèo rớt mùng tơi thì vẫn còn chút vốn phòng thân, làm chủ bản thân. Nghĩa là họ còn có chút quyền lực chính trị, tự lực cánh sinh. Nếu ta thu góp những quyền lực chính trị nho nhỏ đó thì sẽ thành một thế lực lớn để có thể tự bênh vực cho mình. Hiểu được như thế thì mới hiểu được hậu quả của cuộc cải cách ruộng đất, hay cải tạo thương nghiệp đối với việc củng cố bộ máy đàn áp kềm kẹp của chế độ độc tài cộng sản là gì.
Tóm lại, những vấn đề bất tương xứng để phủ nhận quyền tư hữu và hiệu năng của một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã chẳng phải sự bắt đầu từ Việt Nam hôm nay, mà nó đã có từ thập niên 1920, Ludwig Von Mises và trường phái kinh tế Áo đã biện luận cho điều này. Tới thập niên 1930, Oscar Langa và Abba Lerner chứng minh rằng trên lý thuyết, một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa tản quyền vẫn có thể vận dụng được những điều kiện tối thuận của một nền kinh tế tự do. Và tiếp đến, Fredrick Hayek và Milton Friedman xác định rằng, mặc dầu trên lý thuyết, tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa tản quyền có thể đạt được hiệu năng tối thuận, nhưng trên thực tế guồng máy này không tạo được sự khích lệ (economic in centives) cần đủ để đáp ứng hữu hiệu và kịp thời đúng lúc với những biến chuyển của nền kinh tế. Vì nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã không đáp ứng được nhanh nhẹn, cho nên nó đã bị mắc nghẽn trì trệ, tạo ra hoang phí tài nguyên, và dẫn đến tình trạng phá sản hết sức nghiêm trọng như Việt Nam hôm nay.
4. Kết luận
Chúng ta đã giải thích được xã hội chậm tiến và nghèo đói trên nguyên lý định hướng xã hội chủ nghĩa hai nấc thang mô hình Maslow, và cả hai đều dẫn tới một hệ quả duy nhất là đảng cộng sản không mang lại hạnh phúc ấm no cho dân tộc. Một tập đoàn cai trị đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân thì trước sau gì cũng bị đào thải. Nhìn vào thời cận đại, nhân dân các nước cộng sản Ðông Âu đã vùng dậy làm cuộc lật đổ chế độ độc tài đảng trị, từng một thời nhân danh vô sản chuyên chính và dân chủ tập trung.
Nhân dân các nước trong khối cộng sản đã vượt thắng sự sợ hãi bị khủng bố đàn áp để mà đứng lên. Một người đứng lên, triệu người đứng lên, toàn dân đứng lên. Ðạp đổ chế độ phi nhân, để giành lại quyền sống, khôi phục nền văn minh nhân bản, và xây dựng lại đất nước.
Phạm Văn Bản
13 April 2009
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
Thật vậy, dân tộc Việt Nam hãy can đảm đứng lên để lật qua những trang sử cộng sản đẫm máu và đau thương. Đã quá trễ rồi. Ngày nào còn cộng sản, thì còn chết chóc, tù đày, tự do, nhân quyền còn bị chà đạp. |
Nhà cầm quyền cộng sản, hơn lúc nào hết, luôn buộc người dân lo nghĩ đến chuyện miếng ăn, cái mặc. Cái bụng lúc nào cũng phải cảm thấy còn đoi đói, chưa no. Và người dân thì thiếu thốn nhu yếu phẩm, lo chạy gạo từng bữa. Ðủ hôm nay thì thiếu ngày mai, hay được nồi cơm sáng, thì lại chưa có nồi cơm chiều. Cuộc đời cứ quần quật lo đói rách như thế, thì xin hỏi, còn chi thì giờ mà nhân dân nghĩ đến tranh đấu, hoặc đòi hỏi tự do dân chủ nhân quyền? |
Cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh từng dạy: “Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình thì càng ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Còn dân thì ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mà mong đợi trông cậy ở vua ở quan, giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay một người, hay một chính phủ muốn làm sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không kiểm xét, thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường. Anh chị em đồng bào ta đã hiểu thấu các lẽ, thì phải mau mau góp sức lo toan việc nước mới mong có ngày cất đầu lên nổi”. |
"The religion of the future will be a cosmic religion. The religion which is based on experience, which refuses dogmatism. If there's any religion that would cope with modern scientific needs it will be Buddhism." Albert Einstein
Tôn giáo trong tương lai sẽ là tôn giáo của vũ trụ. Tôn giáo này dựa trên kinh nghiệm và không chấp nhận chủ nghĩa giáo điều. Nếu có một tôn giáo nào tương thích với khoa học hiện đại, đó chính là Phật Giáo. |
No comments:
Post a Comment