21 June 2009

Sơn Hà Nguy Biến

TQ đã giấu khả năng và chần chờ quá lâu, VN là nước mà TQ cần nên đánh trước. TQ cần gấp một chiến thắng để gởi tín hiệu cho thế giới về vị thế cường quốc của mình và khích lệ nhân dân TQ. Họ nói Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Robert Gates ở hội nghị Đối Thoại Shangri-La, Singapore 31/5/09 đã bật đèn xanh cho TQ khi nói rằng Mỹ không có quan điểm gì về các tranh chấp chủ quyền tại biển Đông

Lê Minh Nguyên




Bóng chúng – Đè lên – Số phận – Từng người (thơ Trần Dần)

Báo Viễn Đông Kinh Tế ngày 2/5/08 có bài “Bắc Kinh Theo Chủ Nghĩa Phát Xít Cổ Điển”, nhận xét rằng bản chất của các chế độ Phát Xít là độc tài toàn diện về chính trị nhưng tương đối cho tự do kinh tế, và bành trướng chinh phục là DNA trong tế bào của chế độ. Các quốc gia dân chủ cần điều chỉnh lại quan niệm sai lầm là sự giàu có mang lại hoà bình. Bài báo cho rằng quyền lợi lâu dài của người dân Trung Quốc (TQ) là sự tự do chính trị dù đôi khi có rối rắm hay hỗn độn. TQ bành trướng chỉ là vấn đề thời gian, bước đầu tiên là các nước chư hầu triều cống và sáp nhập Đài Loan. Chế độ TQ ngày hôm nay là hậu duệ của hai cuộc cách mạng khác nhau:

(1) Mao là kinh nghiệm thất bại của chủ nghĩa cộng sản và
(2) Đặng là sự hoá thân đi vào chủ nghĩa Phát Xít.

Sách trắng Quốc Phòng năm 2008 của TQ xác nhận là cần tăng tốc việc tranh đấu cho tài nguyên chiến lược, cần tung lực lượng ra ngoài để hỗ trợ đòi hỏi biển, sử dụng chính sách ngoại giao với sự cưỡng bách quân sự.

Theo báo The Economist, ngân sách quốc phòng TQ năm 2008 là 85 tỉ đô la, đứng thứ nhì sau Hoa Kỳ. Với Project 048, TQ đang xây hàng không mẫu hạm ở đảo Trường Thành (Changxing) cạnh Thượng Hải và sẽ có 2 chiếc hoạt động vào năm 2015. Lực lượng hải quân có khoảng 55 tàu ngầm, 70 khu trục hạm, 50 tàu đổ bộ và 40 tàu chiến ven bờ. TQ đã chế xong 2 trong 6 chiếc tàu ngầm nguyên tử lực tối tân, loại Jin-class (094) và trang bị hoả tiển JL-2 có tầm xa 7,200km. Trên bộ, TQ trang bị hoả tiễn nguyên tử di động DF-31 và DF-31A. TQ sắp sử dụng hàng không mẫu hạm NAe Sao Paulo của Brazil để thực tập bay/đáp theo kỹ thuật CATOBAR (phóng khi lên, dùng giây móc khi xuống). Còn Việt Nam (VN) vừa mua của Nga 6 tàu ngầm Kilo ($1.8 tỉ đô la) và 8 máy bay Su-30MK2 ($400 triệu đô la) không kèm vũ khí hay thiết bị kỹ thuật, khác nào chim ưng không móng (máy bay mới của Nga là Su-35), so ra khó thể làm cho TQ ngại ngùng khi tính toán chiến tranh. Cuối năm 2009, TQ sẽ thao diễn quân sự đại quy mô kéo dài 2 tháng có tên “Tiến Bước-2009”, sử dụng quân sĩ của 4 trong tổng số 7 quân đoàn với 50,000 quân thao tập, huy động 60,000 xe, sử dụng vũ khí nặng, điều kiện đánh trận thật, bắn đạn thật, di chuyển trường chinh với 50,000 km đường, mỗi tiểu đơn vị di chuyển một tuyến đường dài hơn 2,400km, tiến quân cùng một lúc từ 4 đại bản doanh của 4 tỉnh Thẩm Dương, Lan Châu, Tế Nam và Quảng Châu. Việc thao diễn nhằm phối hợp lục và không quân để đạt 6 chỉ tiêu là kiện toàn chỉ huy, phối hợp binh chủng, sử dụng kỹ thuật điện-từ, tấn công, giao chiến, và sử dụng lực lượng đặc nhiệm (Jamestown.org 15/5 và 12/6/09).

TQ đang trong chiều hướng chuẩn bị dư luận cho chiến tranh bành trướng xẩy ra trong tương lai. Trong tháng 3/09 vừa qua, quyển sách Trung Quốc Bất Cao Hứng của 5 tác giả Vương Tiểu Đông, Tống Hiểu Quân, Hoàng Kỉ Tô, Tống Cường và Lưu Ngưỡng, bán chạy nhất ở TQ với số in 180,000 cuốn bán sạch (và in thêm với số bán hơn nửa triệu), đưa ra viễn kiến cho TQ trong 30 năm tới, cho rằng TQ phải có chí lớn, đã đến lúc TQ phải “thay Trời hành đạo”, lãnh đạo thế giới, phải cầm gươm kinh doanh, tận dụng tài nguyên thế giới, Giải Phóng Quân phải bám sát lợi ích nòng cốt của TQ trên thế giới (hoinhavanvietnam.vn 14/4/09). Đây là hình ảnh của anh thương gia tay xách túi tiền và trên vai có mang theo khẩu súng.

TQ coi các quốc gia xung quanh là sợi dây chuyền trân châu đeo trên cổ của họ, vòng đai chư hầu để TQ khai thác tài nguyên và làm phên dậu, từ Mông Cổ, Bắc Hàn, VN, Lào, Cam Bốt, Miến Điện, Bangladesh, Pakistan, Sri-Lanka. Họ đã bỏ ra $1 tỉ đô la để xây hải cảng Hambantota phía Đông Bắc Sri-Lanka, kiểm soát Ấn Độ Dương, thọc vào nách Ấn Độ, tạo quân cảng 2 bên vùng vịnh Bengal từ Sri Lanka qua Miến Điện (UPI Asia 13/5/09).

Chuyên gia Nga về VN, tiến sĩ Vladimir Kolotov nhận xét rằng chiến lược dài hạn của TQ rất rõ ràng là kiểm soát vùng Đông Nam Á (ĐNÁ), ban đầu gián tiếp sau đó trực tiếp, và hàm ý TQ muốn lập chế độ bù nhìn ở VN. TQ hứa hẹn với VN hợp tác khai thác chung ở những vùng biển tranh chấp, nhưng theo ông, hợp tác khai thác là phải cùng đầu tư. Công ty dầu China National Offshore Corp. đã bỏ ra $30 tỉ đô la để khai thác quanh Trường Sa. VN có bỏ ra được $10 tỉ hay không? Ông nhận xét là trong lịch sử mỗi khi TQ mạnh, lần nào cũng là một vấn đề lớn cho VN (BBC 14/5/09 và 23/12/08). Tuần dương hạm Trịnh Hoà của TQ ghé cảng Đà Nẵng ngày 18/11/08 và Trung Tướng CSVN Vũ Xuân Vinh nói trong dịp này là “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Với tàu Trịnh Hoà, TQ gởi đến VN một tín hiệu của sự đe doạ, nhắc nhở cho VN rằng Trịnh Hoà (1371-1433) là Thuỷ Sư Đô Đốc thời nhà Minh cường thịnh và xâm lăng VN, đưa đến cuộc khởi nghĩa của anh hùng áo vải Lam Sơn (BBC 18/11/08).

Hiện nay ở TQ, các tờ Đông Phương Nhật Báo, China Daily, website quân sự chính trị Thiết Huyết ở Bắc Kinh đều có chủ trương muốn thôn tính VN bằng vũ lực trong một cuộc chiến tranh cục bộ để mở rộng không gian của mình (lý luận của Phát Xít Đức-Ý trước kia), vì VN là hòn đá cản đường sự phát triển của TQ, và tình hình hiện nay là cơ hội lịch sử, cần đánh nhanh. TQ đã giấu khả năng và chần chờ quá lâu, VN là nước mà TQ cần nên đánh trước. TQ cần gấp một chiến thắng để gởi tín hiệu cho thế giới về vị thế cường quốc của mình và khích lệ nhân dân TQ. Họ nói Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Robert Gates ở hội nghị Đối Thoại Shangri-La, Singapore 31/5/09 đã bật đèn xanh cho TQ khi nói rằng Mỹ không có quan điểm gì về các tranh chấp chủ quyền tại biển Đông (BBC 2/6 và 11/6/09). Tâm lý này của TQ được phản ảnh qua việc họ đồng tình với Nga khi Nga chiếm 2 tỉnh South Ossetia và Abkhazia của Georgia, lập thành 2 nước thân Nga, trong khi thế giới chỉ lên tiếng suông chứ không có một hành động cụ thể nào để bảo vệ Georgia. Liệu rằng với sự hiện diện của TQ ở Tây Nguyên và các vùng có dân tộc thiểu số để khai thác quặng mỏ, có ai bảo đảm rằng TQ sẽ không làm như Nga ở Georgia?

Chúng ta còn nhớ vào đầu tháng 8/08 và kéo dài đến tháng 9/08, mạng Sina.com cùng 3 mạng khác ở TQ đăng kế hoạch cùng bản đồ đánh chiếm VN trong 31 ngày với 310,000 quân hải lục tiến từ Vân Nam, Quảng Tây và Vịnh Bắc Bộ, dùng hoả tiển tầm xa bắn phá 5 ngày đầu để làm tê liệt hoá khả năng truyền thông của VN. Theo GS Ngô Vĩnh Long ở Đại Học Maine, là có sự nhúng tay của Bắc Kinh, vì thường những thông tin chính quyền ngăn cấm không thể xuất hiện quá 3 ngày. GS Long cho rằng nếu VN lo sợ thì TQ lấn hơn, nếu mạnh mẽ thì TQ dè dặt. Các mạng này cho rằng VN là mối đe doạ chủ yếu nhất đối với an ninh TQ, là trở ngại lớn nhất đối với sự trổi dậy của TQ, là đầu mối và trọng tâm chiến lược của toàn bộ khu vực ĐNÁ, muốn kiểm soát ĐNÁ cần chinh phục VN và VN là một cái xương khó nuốt (BBC 8/08). Chủ Tịch Quốc Hội Nhật, ông Tamisuke Watanuki khi viếng Hà Nội ngày 10/1/2002 đã nói với ông Nguyễn Văn An, Chủ Tịch Quốc Hội VN lúc bấy giờ là “mối đe doạ đang nằm ở kế bên” (Asia Times, 1/2/06).

Với chính sách cưỡng bách là mỗi gia đình chỉ có một con và văn hoá trọng nam khinh nữ, xã hội TQ hiện nay có khoảng 37 triệu trai thừa và sẽ tăng lên khoảng 40 triệu vào năm 2020 (peopledaily.com.cn 10/7/07 và Wikipedia). Tầng lớp này hiện đang bước dần vào hạng tuổi lãnh đạo ở các cấp chính quyền TQ. Nhiều nhà xã hội học lo lắng rằng thành phần này có tâm lý phiêu lưu, họ dễ đưa TQ vào con đường mạo hiểm và sẽ tạo bất ổn cho thế giới. Nhìn cách TQ cư xử trịch thượng đối với VN trong những năm gần đây thì dù thờ ơ đến đâu chúng ta cũng phải bắt đầu lo lắng. Mặc dù Bộ Chính Trị Đảng CSVN đã hết sức quỵ luỵ, một lòng theo chủ trương “nhất biên đảo” (ngả hẳn về một bên thân TQ), nhưng VN càng khiếp nhược nhường nhịn thì TQ càng “được đằng chân lân đằng đầu”, càng gia tăng sự lấn át để bành trướng.

TQ là một quốc gia độc tài toàn diện và đang có tham vọng bá quyền. Trong chế độ độc tài, các lãnh tụ nếu muốn củng cố địa vị lãnh đạo của mình thường lúc nào cũng phải hát giọng cao như Đại Hán, ái quốc, bành trướng không gian sinh tồn, hùng mạnh, đánh Đài Loan, dạy cho VN một bài học, đánh Ấn Độ lấy tỉnh Arunachal Pradesh, chứng tỏ sức mạnh cường quốc của mình cho thế giới kính sợ v.v. Nếu ai hát giọng thấp thì sẽ bị mất quyền lực ngay. Biến cố Thiên An Môn 1989 đã thể hiện rõ điều này khi những người lãnh đạo ôn hoà muốn thương thảo với sinh viên đều bị hạ bệ. TQ đang có nhu cầu đánh một trận lấy chiến thắng để thị uy cùng thế giới và họ đã chọn chiến trường đầu tiên là VN, vì nó hội đủ tất cả mọi điều kiện để TQ chiến thắng dễ dàng, nhanh chóng, thu được các mối lợi cao như biển Đông, tài nguyên, và mở được cửa ngõ chiến lược để bành trướng xuống vùng ĐNÁ. Do đó, vấn đề Đánh VN chỉ là vấn đề thời gian sớm hay muộn mà thôi. TQ đã gài được cái thế tương quan để VN đi từ một quốc gia có chủ quyền (trước 1991 với sự độc lập tương đối), đến sự liên hệ hợp tác song phương (sau khi thiết lập bang giao 1991 để bắt đầu đi vào con đường chư hầu), rồi trói chặt VN bằng sự liên hệ hợp tác chiến lược toàn diện (sau 2008 và đi vào vòng nô lệ). TQ không đánh VN chỉ khi nào bất chiến tự nhiên thành, do VN chịu cam thân làm nô lệ. CSVN chấp nhận như vậy nhưng dân tộc VN có chịu tiếp tục bị đô hộ hay không?



Việt Nam-Trung Quốc núi liền núi sông liền sông… Đất nước chung nghe tiếng gà gáy cùng (bài hát CSVN) – CSVN và chính sách quỵ luỵ

TQ đã coi VN là chư hầu và đang đưa VN vào tình trạng nô lệ, chủ tâm làm hao mòn để dân tộc VN bị tiểu nhược. Khi cư xử với các quốc gia ĐNÁ khác, TQ tôn trọng họ. Với VN, TQ hoàn toàn thiếu sự khoan nhượng và có tính cách thống trị.

Từ tháng 2/1999 đến 12/2000, TQ ký với tất cả 10 quốc gia ĐNÁ các thoả ước khung sườn cộng tác song phương, qua hình thức tuyên bố chung giữa các bộ trưởng ngoại giao hay phó thủ tướng, chỉ trừ VN là phải có thêm thoả ước ký bởi 2 tổng bí thư. Khi ký với các quốc gia khác, TQ đều cho dựa vào các điều khoản luật quốc tế như Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và những hiệp ước quốc tế. Riêng VN, thoả ước 1999 không dựa vào điều khoản luật quốc tế nào cả. Thoả ước năm 2000 thì chỉ dựa vào Hiến Chương LHQ và 5 nguyên tắc sống chung hoà bình. Trong việc thực hiện sự cộng tác giữa TQ và các quốc gia khác, TQ chỉ đòi hỏi tổng quát là trao đổi cấp cao. Riêng VN, thoả ước 1999 đòi hỏi toàn diện cộng tác từ đảng, chính quyền, các tổ chức quần chúng, các địa phương. Đối với các quốc gia khác, TQ đòi hỏi họ hổ trợ TQ một cách chung chung mà thôi. Riêng VN thì hết sức là chi tiết và đòi hỏi VN tuyệt đối không bao giờ được phát triển quan hệ chính thức với Đài Loan. TQ cam kết tôn trọng sự độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ với 8 trong 10 quốc gia ĐNÁ, trừ VN và Brunei. TQ hứa tham khảo và cộng tác với các quốc gia ĐNÁ ở các diễn đàn quốc tế như LHQ, ASEAN, ASEAN+3, trừ VN. Về sông Cửu Long, TQ hứa với Lào, Miến Điện, Thái Lan, Cam Bốt là giúp họ phát triển vùng hạ lưu, trừ VN (Thayer 25/3/06).

Trong khi CSVN bị TQ bức hiếp thì các quốc gia khác, dù nhỏ yếu hơn VN như Phi Luật Tân, đã can đảm chống lại TQ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của mình. Có thể nói vấn đề tranh chấp Trường Sa trong hai năm qua là vấn đề giữa TQ và Phi, chứ không phải giữa TQ với VN, bởi vì VN chấp nhận thua thiệt và im lặng. Ngày 9/7/07 TQ bắn chết ngư dân VN trong vùng Trường Sa, tàu hải quân BPS-500 của CSVN có mặt ở đó, nhưng chỉ đứng nhìn (BBC 20/7/07). Quy Ước Ứng Xử năm 2002 giữa TQ và các quốc gia Đông Nam Á chỉ là một văn bản có tính cách hứa hẹn không làm phức tạp vấn đề, nó không có tính cách ràng buộc, không có chế tài, không có hải hình rõ rệt vì TQ không chịu để Hoàng Sa vào, và không bao gồm tất cả các quốc gia tranh chấp vì không có Đài Loan tham dự. TQ đã coi nó như một tờ giấy lộn. Thoả hiệp hợp tác địa chấn biển và thăm dò dầu khí chung trong vùng tranh chấp giữa TQ, Phi và VN năm 2005 có hiệu lực 3 năm, đã mãn hạn ngày 30/6/08 và không được gia hạn. Phi đã huỷ bỏ năm 2007-08 vì cho rằng TQ bắt nạt, áp lực Quốc Hội Phi đòi thay đổi đường bờ biển căn bản. Đối lập Phi cho là vi hiến và tham nhũng. Phi còn thông qua luật ngày 17/2/09 coi các đảo là “regime islands” thuộc chủ quyền của Phi, mặc cho TQ phẫn nộ. Bà Tổng Thống Gloria Arroyo còn cố ý ký thành luật vào ngày tân đại sứ TQ trình uỷ nhiệm thư 10/3/09, chỉ hai ngày sau biến cố tàu Impeccable bị TQ xách nhiễu ở 75 dặm cách đảo Hải Nam. Cố Vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia và Bộ Trưởng Quốc Phòng Phi đã phản ứng dữ dội về việc TQ đưa tàu Ngư Chính 311 vào vùng Trường Sa. TQ phải dịu giọng giải thích đó chỉ là những hoạt động thường lệ và ngày 24/3/09 hứa giải quyết ôn hoà. Với Mỹ và Phi, TQ chưa dám phản ứng bằng cách gởi tàu chiến hạng nặng. Mỹ tuy có ráo riết theo dõi căn cứ hải quân Tam Á của TQ ở Hải Nam (qua vụ máy bay thám thính EP-3 bị chiến đấu cơ TQ đụng tháng 4/2001 và vụ tàu Impeccable) nhưng cho đến nay lập trường của Mỹ giới hạn vào sự thông thương tự do ở hải phận quốc tế, cách bờ 12 hải lý, và các công ty Mỹ không bị đe doạ khi khai thác hợp pháp trong các vùng đặc quyền kinh tế của phạm vi 200 hải lý hay xa hơn (Jamestown.org 30/4/09).

Nhật Bản còn mãnh liệt hơn Phi trong việc tranh chấp biển đảo với TQ. Nhật đơn phương tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế từ lằn chính giữa của đảo Ryukyu và bờ biển TQ, chỉ có Nhật độc quyền khai thác và Nhật sẽ có hành động trừng phạt nếu TQ vi phạm. Nhật còn đe doạ TQ không được khai thác gần đường ranh vì có thể rút dầu từ bên phía Nhật ở dưới mặt đất. TQ tuy viện dẫn thềm lục địa của họ kéo dài tới trũng Okinawa, nằm sâu bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Nhật, nhưng TQ không dám có hành động gì.

Luật biển Liên Hiệp Quốc UNCLOS 1982 về vùng đặc quyền kinh tế thì mơ hồ, trước kia theo thềm lục địa nhưng sau này thì thiên về đường chính giữa, như phán quyết trong vụ tranh chấp Libya-Malta, ngoài ra còn đi theo tỉ lệ của bờ biển. Trong vụ tranh chấp Úc-Nam Dương (East Timor) thì thềm lục địa của Úc chạy đến trũng Timor, có lợi cho Úc. Nhưng sau khi Timor độc lập năm 2002, Timor đòi đường chính giữa và Úc đã tương nhượng, đồng ý là phần giữa trũng và đường chính giữa Timor được chia lợi nhuận trong sự khai thác. Trong việc tranh chấp giữa Nhật-Nam Hàn, hai bên đồng ý là có sự bất đồng và đợi đến năm 2028 sẽ giải quyết, trong hiện tại hai bên khai thác chung phần nằm giữa trũng và đường chính giữa. Cũng như TQ, thềm lục địa Nam Hàn chạy đến trũng Okinawa. Hiện giờ lằn ở giữa được LHQ chiếu cố và phương pháp giải quyết tranh chấp thường dùng là “thoả thuận tạm thời và thực tiển”. TQ muốn như vậy đối với Nhật nhưng Nhật cương quyết từ chối và TQ không làm gì được. Ngay cả vùng đảo Senkaku (TQ gọi là Diaoyu), TQ và Đài Loan có thế mạnh về lịch sử và thềm lục địa, nhưng Nhật đòi cả 220 hải lý vùng đặc quyền kinh tế tính từ hòn đá phía Đông của Nhật mà họ gọi là đảo Okinotori, vi phạm Điều 212(3) của UNCLOS (Asia Times 1/2/06).

Nhật là một quốc gia đã từng chiếm đóng TQ và là một cường quốc cho nên TQ không dám hiếp đáp. Do đó TQ dòm ngó ĐNÁ, nhất là VN là nơi mà TQ dễ bắt nạt. TQ với bản đồ chữ U nộp Liên Hiệp quốc (LHQ) chiếm 80% biển Đông, đòi 350 hải lý thay vì 200 như quy ước, diện tích đòi là 3 triệu km², trong khi theo quy ước chỉ là 270 ngàn km² (Strait Times, 19/5/09). TQ dùng vũ lực chiếm 7 đảo ở Trường Sa và khoảng 100 giếng khoan dầu mà TQ nói là nằm trong vùng biển của họ với trử lượng 22.5 tỉ tấn dầu trong tổng số khoảng 35 tỉ tấn. Trường Sa còn là một vị trí chiến lược quan trọng, TQ có 21 trong tổng số 39 đường hàng hải đi qua vùng Trường Sa. Trường Sa nằm ngay trung điểm của chữ S để tiến Đông qua Thái Bình Dương và tiến Tây qua Ấn Độ Dương và TQ coi Trường Sa là lưỡi gươm bén của họ (John Chan, WSWS.org).

Vì đặt quyền lợi đảng và quyền lợi cá nhân lên trên quyền lợi dân tộc, CSVN đã hoàn toàn lệ thuộc TQ để duy trì độc quyền lãnh đạo. Biết được nhược điểm này, TQ đã biến họ thành những quan thái thú dễ sai của thời kỳ đô hộ mới. Do đó trong sự liên hệ giữa VN và TQ, CSVN đi từ quỵ luỵ này đến quỵ luỵ khác. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, khi các quốc gia Âu Châu theo chính sách quỵ luỵ Phát Xít thì chỉ giúp cho Phát Xít bành trướng thêm lên và kết quả chỉ là thảm hoạ. Với chủ trương “Láng giềng hữu nghị - Hợp tác toàn diện - Ổn định lâu dài - Hướng tới tương lai” (16 chữ vàng) và “Láng giềng tốt - Bạn bè tốt - Đồng chí tốt - Đối tác tốt” (4 tốt), con thuyền VN đã bị CSVN buộc chặt vào con thuyền khổng lồ của TQ. Các câu này rõ ràng là để áp dụng cho VN chứ không phải TQ, nói một cách giản dị là “vì ở cạnh TQ nên phải cư xử thân thiện với TQ, hoàn toàn vâng theo lời TQ, có như vậy TQ mới cho được yên ổn cầm quyền lâu dài, và TQ đi hướng nào thì VN phải đi theo hướng đó”, và “đã ở bên cạnh TQ thì phải làm đàn em ngoan ngoãn, làm đảng viên trung thành, làm nơi cho TQ bán hàng và khai thác tài nguyên”, luôn làm “tốt” để phục vụ quyền lợi TQ.

Láng giềng tốt: TQ dọn mìn ở vùng biên giới và vùng đèo Hữu Nghị 3 lần, lần thứ I từ 1992-94, lần thứ II từ 1997-99 được coi là lần dọn mìn lớn nhất lịch sử thế giới, và lần thứ III từ 2005. TQ cho biết hàng ngàn mẫu trà đã được trồng năm 1999. Câu hỏi được đặt ra là mìn đó do ai đặt? và đặt trên đất của ai? Bây giờ có hàng ngàn mẫu trà là đất của TQ (VOA 31/12/08). TQ mang 200,000 quân đánh VN năm 1979, họ chiếm vùng biên giới nước ta, và VN ở thế tự vệ thì làm sao mà VN có thể đặt mìn trên đất TQ được? Chỉ có thể là TQ trước khi rút quân họ đã đặt mìn trên đất VN để phục vụ 2 mục đích: VN không thể đánh bọc hậu, và vùng đất này không ai có thể sử dụng được cho đến khi mìn được tháo gỡ. Có lẽ chính vì bị mất đất quá nhiều cho nên CSVN, qua ông TS Nguyễn Hồng Thao của Ban Biên Giới Chính Phủ VN, đã tìm cách thối thoát không đưa ra bản đồ, viện dẫn rằng có hơn 2000 cột móc (theo DPA của Đức, tất cả là 2,333 cột mốc) cũng là hơn 2000 biên bản nên cần có thời gian và phải mất ít nhất 1 năm nữa (BBC 2/1/09). Chúng ta, ai cũng biết rằng với kỹ thuật vệ tinh và GPS ngày nay, chỉ cần mang cell phone có GPS đến cột mốc là vị trí này chính xác xuất hiện trên bản đồ. CSVN đã dối gạt dân để mua thời gian và tạo quên lãng trong việc nhường lãnh thổ.

Trong hơn 3 năm vừa qua, vào mùa đánh cá của ngư dân VN, TQ ra lệnh cấm 2 tháng và năm nay tăng lên 2 tháng rưỡi từ 16/5/09 đến 1/8/09 lấy lý do là để bảo vệ môi trường, mà theo GS Nguyễn Mạnh Hùng nhận xét, là TQ chiếm từ từ bằng cách tạo tiền lệ, sau một thời gian tiền lệ sẽ trở thành tập tục quốc tế, và sau đó nữa là hoàn toàn của họ, lấy một cách êm thắm, chính quyền CSVN thì lặng thinh và thế giới không ai phản đối. Theo GS Hùng, nếu VN không giữ chặt, kể cả tử chiến, những gì mình còn chưa mất, thì TQ sẽ tiếp tục lấy nữa, và điều kiện tiên quyết là lãnh đạo VN phải nhất trí, coi nguy cơ bá quyền của TQ là nguy cơ lớn nhất, trên cả 4 đại nguy cơ mà CSVN nêu trong đại hội của họ là tục hậu, chệch hướng, tham nhũng, và diễn tiến hoà bình (RFA 1/6/09). Nhưng điều này khó thể xảy ra với thành phần lãnh đạo hiện tại. Lệnh cấm của TQ từ Cam Ranh trở lên bao phủ một vùng rộng lớn 128,000km² vào mùa biển lặng gió yên đã làm thiệt hại 60% tổng số cá sản xuất hàng năm của ngư dân (BBC 9/6/09). Trả lời yêu cầu của ông Thứ Trưởng Ngoại Giao VN Hồ Xuân Sơn đến ông Đại Sứ TQ Tôn Quốc Tường, ông phát ngôn nhân Tần Cương của TQ cho biết lệnh cấm đánh cá là cần thiết, là biện pháp thông thường và đứng đắn trong vùng lãnh thổ của họ. Báo chí và dư luận ở TQ còn cho là họ làm như vậy và tăng lệnh cấm từ 2 tháng lên 2 tháng rưỡi là để thăm dò ý chí của VN, vì VN đã có hành động khiêu khích như lập quận Hoàng Sa, họ cần cảnh báo để VN không đi quá xa, nếu VN có hành động gì thì TQ sẽ ra tay mà không bị mang tiếng là bắt nạt, và “vũ lực đằng sau lời lẽ là điều cần thiết”.

Bạn bè tốt: Tháng 12/2005 TQ đe doạ công ty dầu Ấn Độ ONGC trong việc hợp tác khai thác với VN ở biển Đông. TQ cũng đe doạ như vậy với công ty BP của Anh tháng 4/07 khiến BP phải bỏ, và Exxon-Mobil của Mỹ tháng 7/2008. TQ thao diễn quân sự ở TS một tuần từ 16/11/07 và mở tour du lịch cho dân TQ. Ngày 2/12/07 Quốc Vụ Viện TQ phê chuẩn thành lập huyện Tam Sa để bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa. Khi VN tổ chức hội nghị APEC tháng 11/06, TQ cảnh cáo là không được mời Đài Loan tham dự. Trong công tác nhân đạo, tàu bệnh viện USS Peleliu của HK đến cảng Đà Nẵng giữa tháng 7/07 nhưng CSVN không cho lên bờ và không cho dùng trực thăng để di chuyển bệnh nhân vì sợ TQ phật lòng. Cuối tháng 7/07 ông Du Tích Khôn, chủ tịch đảng Dân Tiến Đài Loan (DPP) đã được CSVN cấp visa để viếng thăm VN đầu tháng 8/07 nhưng TQ áp lực và CSVN huỷ bỏ. DPP coi đó là “một hành động lăng mạ phỉ báng” và “hết sức bất nhã” của CSVN. Đại sứ CSVN ở TQ, ông Trần Văn Luật, cuối tháng 8/07 đã bị TQ gọi đến để huấn thị là báo chí VN phải ngưng đăng những tin tức về sản phẩm TQ thiếu chất lượng mà báo chí trên thế giới đang ồn ào loan tin, nếu không thì hàng hoá VN gặp vấn đề tại biên giới. TQ không làm như vậy với đại sứ của các quốc gia Tây Phương trong khi báo chí tây phương ồn ào nhất về việc này. CSVN đã đồng ý cho ông Thứ Trưởng Ngoại Giao HK John Negroponte công du VN trong chuyến đi giữa tháng 9/08 nhưng lại huỷ bỏ vào giờ phút chót với lý do là thời tiết xấu. Ông Carlyle Thayer tiết lộ là các quan chức VN cho ông biết do TQ áp lực, đe doạ sẽ huỷ bỏ chuyến đi TQ của ông Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm (BBC 16/8/07 và 29/9/08). Qua các sự kiện này thì ta thấy ai tốt với ai?

Bộ Chỉ Huy Giám Sát Hàng Hải của TQ nói rằng đối với các hải đảo và biển, TQ phải kiểm soát và quản lý thay vì cứ nói chứng cớ lịch sử. Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Đại Học Quốc Phòng TQ cho rằng TQ phải kiểm soát thường xuyên và lâu dài vì ngoài nguồn cá còn phải chứng tỏ chủ quyền tối cao. Trong khi đó CSVN cứ nhai đi lập lại một cách sáo rỗng về chứng cớ lịch sử và cơ sở pháp lý mà không có một hành động cụ thể nào cả, kể cả vấn đề tương đối dễ dàng như đưa ra Liên Hiệp Quốc để đánh động dư luận quốc tế (South China Morning Post 16/4/09).

Sông Cửu Long là bộ phận cốt lõi trong chu kỳ sinh động của quả địa cầu, sứ mệnh thiêng liêng của nó là bào mòn, chuyển tải và bồi đắp, mang vật chất từ nơi cao để đem về nơi thấp. Tất cả những công trình thuỷ đập, dù có cao kiến cách mấy cũng làm cho nó mất thăng bằng, làm xáo trộn sự tuần hoàn của quả đất, đóng góp vào sự tuyệt chủng của các sinh vật. Trong lịch sử của quả địa cầu, đã có ít nhất 5 lần đại tuyệt chủng do môi trường biến đổi, và hiện nay có khoảng 400 sinh vật bị tuyệt chủng mỗi ngày (Inquiry into Life. Mader, 12th Ed.). Sự mất thăng bằng trầm trọng của sông Cửu Long sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sự tồn tại của các sinh vật sống ở vùng hạ lưu sông này, nhất là cư dân. Chỉ riêng ở Vân Nam, TQ đã xây 14 đập lớn, dung lượng của một đập Tiểu Loan đã bằng tất cả các hồ chứa ở ĐNÁ cộng lại. GS Ngô Đình Tuấn, Chủ Tịch Hội Đồng Khoa Học Viện Nghiên Cứu Nước và Môi Trường ĐNÁ nói rằng TQ đang “bức tử” sông Cửu Long. TQ còn lấy nước sông Cửu Long đưa về Trường Giang để bù vào việc họ lấy nước Trường Giang đưa lên mạn Bắc qua việc xây đập Hoàng Hà. Dòng sông đi qua 6 nước, trên nguyên tắc nó là con sông quốc tế và mọi việc phát triển nếu có, phải do cả 6 nước tham dự và quyết định, nhưng TQ không công nhận điều này và tự tiện coi nó là con sông quốc gia, khai thác bất cần hậu quả cho những quốc gia ở hạ nguồn. VN tất nhiên là hứng chịu những hậu quả nặng nề nhất vì là nước ở phía cuối dòng sông (BBC 3/6/09).

Đồng chí tốt: Trong chuyến viếng thăm ngày 13/6/09 ở Hà Nội, ông Lý Nguyên Triều, Ủy Viên Bộ Chính Trị, Bí Thư Ban Bí Thư, và Trưởng Ban Tổ Chức Đảng Cộng Sản TQ đã ký thoả thuận với ông Nông Đức Mạnh để đào tạo cán bộ cho VN giai đoạn 2009-2015. Trong hệ thống đảng CS, ai cũng biết người Trưởng Ban Tổ Chức Đảng là người đầy uy quyền trong vấn đề sắp xếp nhân sự. Một ông Trưởng Ban Tổ Chức Đảng CS TQ đến VN và CSVN cam kết để họ đào tạo nhân sự cho cán bộ đảng mình trong 6 năm tới, cho họ cái quyền đào tạo và sắp đặt nhân sự lâu dài, cho ta thấy rõ sự lệ thuộc của đảng CSVN vào đảng CSTQ lớn như thế nào. Trong khi đó thì ông Mạnh hết lời ca ngợi quan hệ 2 bên được nâng lên “tầm cao mới” và hứa sẽ “làm hết sức mình” (BBC 13/6/09). Đây là “tầm cao” Bắc thuộc của quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện mà CSVN vừa nâng cấp năm 2008.

Bà Bảy Vân, vợ ông Lê Duẩn, trả lời phỏng vấn của ông Xuân Hồng đài BBC vào tháng 8/08 nói rằng “TQ lấy cái thế là trước kia ông Phạm Văn Đồng có ký một văn bản cho phép TQ quản lý ở Hoàng Sa vì ‘nguỵ‘ đã đóng ở đó”. Đại biểu quốc hội CSVN, ông Dương Trung Quốc hôm 28/5/09 phát biểu trước diễn đàn quốc hội rằng “bài học lịch sử cho thấy, chỉ một sai sót của chính phủ, dân tộc phải chịu đựng hậu quả lâu dài”. Ông nói tuy ngoại giao, quốc phòng quan trọng, nhưng quan trọng hơn hết là lòng yêu nuớc và tinh thần quyết tử của người dân cho sự quyết sinh của tổ quốc. TQ đã mặc nhiên coi Hoàng Sa và vùng biển chung quanh là của họ và chỉ trích VN tiền hậu bất nhất, đã nhường Hoàng Sa cho TQ trước đây sao bây giờ lại đòi. Ông Tần Cương đã nói nhiều lần “VN phản đối là thiếu cơ sở, vì là hoạt động bình thường trong vòng lãnh hải TQ. Tây Sa (Hoàng Sa) và vùng nước kế cận là chủ quyền của TQ không thể chối cải, và tranh chấp về vùng này giữa TQ và VN là hoàn toàn không có,” “VN có những tuyên bố khác nhau trong những thời điểm lịch sử khác nhau”. (BBC 27/11/07 và 9/12/08).

Đối tác tốt: Tháng 4/09 ông Thủ Tướng Dũng đi Hải Nam, Quảng Đông, hết lòng ca ngợi TQ, hết lòng đề cao việc thực hiện 2 đại lộ 1 vành đai, trả lời tờ Đại Công Báo ở Hong Kong rằng phát triển quan hệ với TQ là “chủ trương nhất quán và ưu tiên hàng đầu” của chính sách đối ngoại VN, nói rằng “năm 2008 nâng quan hệ song phương lên quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện”. Trong khi đó thì thống kê của Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội VN cho biết có 75,000 lao động nước ngoài làm việc ở VN (con số thực sự có lẽ cao hơn nhiều) và trong đó hơn 37% là bất hợp pháp, chủ yếu là người TQ. Trong khi đó thất nghiệp tại VN gia tăng mà theo TS Nguyễn Quang A của viện nghiên cứu IDS ở Hà Nội, nó tạo ra một vấn đề xã hội nghiêm trọng vì có những việc trong khả năng mà người VN không được làm. Để xoa dịu sự bất mãn của dân chúng, tháng 4/09 ông Dũng yêu cầu Bộ Lao Động cứu xét và ngày 25/5/09 bà Bộ Trưởng Bộ LĐ Nguyễn Thị Kim Ngân nói Bộ LĐ không có trách nhiệm, đổ lỗi là do các chính quyền địa phương rồi…đứt đuôi ở đó. Ký giả David Pilling, báo Financial Times, nhận xét rằng bauxit là món quà triều cống của CSVN cho TQ và VN là nước bị TQ ép nhiều nhất. Triều cống bằng tài nguyên thiên nhiên và công ăn việc làm của dân chúng là những cống phẩm mới của thời đại. Do đó chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi ông Phó Thủ Tướng Nguyễn Sinh Hùng cả vú lấp miệng em trong Quốc Hội ngày 12/6/09 là ý kiến “ngày càng đồng thuận”, “chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà Nước” và ông Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Phú Trọng nói nên tránh “ảnh hưởng xấu đến quan hệ ngoại giao”. Trong khi CSVN quỵ luỵ TQ thì lòng ái quốc của mọi tầng lớp quần chúng đã vượt qua sự sợ hãi. Đông đảo các khoa học gia và trí thức đã cất cao tiếng nói của mình như các ông Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn, Nguyễn Thế Hùng. Dù sống trong chế độ độc tài toàn diện, Luật Sư Cù Huy Hà Vũ đã can đảm kiện thủ tướng VN ngày 11/6/09. Các cựu tướng Võ Nguyên Giáp, Đồng Sỹ Nguyên, đương kim thiếu tướng công an Lê Văn Cương đã mạnh mẽ lên tiếng bảo vệ Tây Nguyên (RFA 5/6/09, BBC 28/5 và 14/6/09).

Giữa tháng 5/09 người VN ngỡ ngàng về mạng vietnamchina.gov.vn của chính quyền VN, mà luật về Internet của thế giới quy định cái đuôi gov.vn là của chính quyền VN, do chính quyền VN độc quyền chủ quản, vì nó tiêu biểu cho độc lập, chủ quyền và sự quản lý đất nước. Cái máy computer chủ phải đặt ở trong nước, nhưng trang mạng này lại có máy chủ đặt ở TQ, muốn thay đổi gì, VN phải sử dụng công hàm ngoại giao để xin phép, và nội dung lại tuyên truyền cho sự bành trướng biển Đông của TQ, như ông Tần Cương tuyên bố chủ quyền không thể chối cãi của TQ ở Tây Sa và Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa). Mạng này đã được chính lãnh đạo chóp bu 2 nước là các ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Hồ Cẩm Đào, Trương Đình Tuyển, Bạc Hy Lai khai trương ở Hà Nội ngày 16/11/06. Chính quyền CSVN đã vi phạm luật Internet quốc tế và Điều 88 Bộ Luật Hình Sự CSVN về tội “Tuyên truyền chống Nhà Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”. Công An thay vì bắt họ lại cố ý bắt «lầm» LS Lê Công Định, một người đã nhiệt tình bảo vệ VN, họ tìm cách lái sự quan tâm của quần chúng vào vấn đề nhân quyền, vì nó ít nguy hiểm cho chế độ hơn là vấn đề bảo vệ quyền lợi quốc gia dân tộc.

Rừng Núi Dang Tay Nối Lại Biển Xa (nhạc Trịnh Công Sơn)

Tây Nguyên và Hoàng Sa-Trường Sa đang dang tay réo gọi dân tộc Việt Nam ra sức giữ gìn nối lại. Đây là một thách thức lớn lao của thế kỷ khi dân tộc đang ở trong hai gọng kềm của TQ và thái thú VN. Đó là chưa nói đến các cường quốc khác sẵn sàng thủ lợi, thương lượng trên đầu dân tộc VN.

Sau ngoại giao bóng bàn tháng 4/1971, Hoa Kỳ và TQ trở nên thân thiện hơn để chống Liên Sô, tạo điều kiện cho HK rút quân trong những năm sau đó qua chương trình “Việt Nam hoá chiến tranh”. HK đã trả ơn này cho TQ bằng cách để hải quân HK đứng nhìn TQ đánh chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hoà tháng 1/1974. Sau khi ông Đặng Tiểu Bình viếng HK vào tháng 1/1979 thì tháng 2/79 TQ mang 200,000 quân đánh VN. Chuyên gia Nga Sergei Blagov nói với BBC (14/5/09) nhân vụ Nga bán 6 tàu ngầm cho VN là Nga coi trọng quan hệ chính trị, kinh tế, quân sự với TQ hơn VN. HK đang thiếu nợ TQ tính đến tháng 4/09 là 763.5 tỉ đô la thì làm sao HK có thể bênh vực VN được nếu TQ tấn công VN? TQ chỉ cần đòi nợ là kinh tế HK sẽ bị hắt hơi (treas.gov/tic/mfh.txt). Nhiều người hy vọng rằng tàu khảo sát hải dương của HK, USNS Bruce Heezen, ngày 11/6/09 bắt đầu hoạt động ở vùng biển VN để tìm kiếm quân nhân HK mất tích trong chiến tranh là một lý cớ để hải quân HK giúp VN bảo vệ biển Đông. Nhưng ông Đại Sứ HK ở VN, Michael Michalak, trả lời phỏng vấn (VOA 15/6/09) cho biết hoàn toàn là một vấn đề nhân đạo, đã được bàn thảo 3, 4 năm trước đây và đây là lần thứ hai chứ không phải lần đầu.

Điều này cho ta thấy là vấn đề an nguy của VN phải do chính người VN hy sinh bảo vệ. Ngày xưa ông cha ta chỉ dựa vào sức mạnh của toàn dân để đánh Tàu giành độc lập. Trong khi ở Cao Miên các lãnh đạo của họ tranh ngôi, cầu viện Xiêm La và VN, mỗi lần như vậy là một vài tỉnh của Miên bị mất. Sức mạnh quần chúng đã được chứng tỏ một cách rõ rệt qua sự thành công của các cuộc cách mạng màu (ôn hoà) ở nhiều nơi trên thế giới. Đó là điều mà CSVN ngày nay vô cùng lo sợ, bởi vì nếu lòng bảo vệ quốc gia dân tộc của dân chúng được CSVN coi là “âm mưu diễn tiến hoà bình” và sự mãi quốc cầu vinh lại đuợc ông Nguyễn Minh Triết nói là “chính nghĩa sáng ngời” (BBC18/6/09), thì một ngày không xa, khi ý chí của quần chúng đã vươn lên thì không ai có thể ngăn cản được.

TQ đã dùng vũ lực để cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hoà, do đó nó hoàn toàn bất hợp pháp trên bình diện công pháp quốc tế, cho nên nếu chế độ VNCH còn tồn tại thì Hoàng Sa vẫn là của VN. Ngày xưa ông Phạm Văn Đồng bán cái mà CSVN không có, tựa như một người anh tham lam dùng bạo lực để chiếm nhà em mình, xúi kẻ hàng xóm lấy ruộng của người em và nói là mình cho. Nếu người em không bị người anh cướp mất nhà thì việc cho ruộng này sẽ vô giá trị. Nhưng người anh đã lấy nhà người em làm của mình rồi thì không thể nói ngang với kẻ hàng xóm có võ Thiếu Lâm được. Chỉ khi nào người em lấy lại được nhà mới có chính đáng tính để nói chuyện phải trái với kẻ chiếm đoạt, với sự hổ trợ của rất nhiều hàng xóm khác. Dù cho chưa lấy lại được nhưng cộng đồng vẫn công nhận ruộng đó là của người em, và khi kẻ chiếm đoạt bị suy yếu thì người em sẽ có cơ hội để thu về.

Một chế độ không có tính chính đáng để đòi lại Hoàng Sa, không có khả năng để bảo vệ Trường Sa, dâng Tây Nguyên làm cống phẩm, hết lòng quỵ luỵ TQ nhưng vẫn bị TQ khinh khi, thì chỉ là chế độ Lê Chiêu Thống tân thời. Nếu chế độ Đệ I và Đệ II Việt Nam Cộng Hoà có đầy đủ chính đáng tính trên các vùng lãnh thổ này của VN, thì dân tộc VN cần một chế độ Đệ III Cộng Hoà để tiếp nối, một chế độ thực sự tự do dân chủ, thống nhất và hội nhập dân tộc. Nếu toàn dân cương quyết đứng lên đòi lại quyền lãnh đạo đất nước thì nền Đệ III Cộng Hoà này sẽ thực hiện được. Nó đã xảy ra ở cạnh VN như Phi Luật Tân, Nam Dương, ở Đông Âu và sẽ xảy ra ở những quốc gia độc tài khác. Lòng dân và ý đảng đã quá khác biệt, vì lòng dân muốn xả thân cứu nước còn ý đảng thì bán nước nuôi thân. Thế mạnh của một chế độ là nội lực của toàn dân và chính đáng tính trong vấn đề lãnh thổ và lãnh hải. Hiện nay nước VN không có lực vì người dân không có quyền. Một chế độ có đầy đủ dân quyền, do nội lực của toàn dân mà ra, hoàn toàn mới và có tính cách nối tiếp nền dân chủ đa nguyên đã có từ 2 chế độ Cộng Hoà trước đây sẽ có đầy đủ tính chính đáng để bảo vệ VN – ta có thể gọi đó là một nền Đệ III Cộng Hoà. Cho nên dân tộc VN hãy cùng nhau đứng dậy mà đi, bởi vì nếu tất cả “bàn tay ta nắm” sẽ “nối tròn một vòng Việt Nam”.

Ngoài Đông Hải đâm thuyền dân đánh cá
Trên đất liền xây đá chận Cửu Long
Ngày Xưa Mã Viện Trụ Đồng
Ngày nay Thập Ngũ một lòng Bắc Phương

Nhưng:

Dân ta cương quyết chẳng nhường
Bắc Phương ta đuổi về đường Bắc Phương


Lê Minh Nguyên
19/06/2009

No comments:

Post a Comment



Thật vậy, dân tộc Việt Nam hãy can đảm đứng lên để lật qua những trang sử cộng sản đẫm máu và đau thương. Đã quá trễ rồi. Ngày nào còn cộng sản, thì còn chết chóc, tù đày, tự do, nhân quyền còn bị chà đạp.
Nhà cầm quyền cộng sản, hơn lúc nào hết, luôn buộc người dân lo nghĩ đến chuyện miếng ăn, cái mặc. Cái bụng lúc nào cũng phải cảm thấy còn đoi đói, chưa no. Và người dân thì thiếu thốn nhu yếu phẩm, lo chạy gạo từng bữa. Ðủ hôm nay thì thiếu ngày mai, hay được nồi cơm sáng, thì lại chưa có nồi cơm chiều. Cuộc đời cứ quần quật lo đói rách như thế, thì xin hỏi, còn chi thì giờ mà nhân dân nghĩ đến tranh đấu, hoặc đòi hỏi tự do dân chủ nhân quyền?
Cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh từng dạy: “Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình thì càng ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Còn dân thì ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mà mong đợi trông cậy ở vua ở quan, giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay một người, hay một chính phủ muốn làm sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không kiểm xét, thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường. Anh chị em đồng bào ta đã hiểu thấu các lẽ, thì phải mau mau góp sức lo toan việc nước mới mong có ngày cất đầu lên nổi”.
"The religion of the future will be a cosmic religion. The religion which is based on experience, which refuses dogmatism. If there's any religion that would cope with modern scientific needs it will be Buddhism." Albert Einstein

Tôn giáo trong tương lai sẽ là tôn giáo của vũ trụ. Tôn giáo này dựa trên kinh nghiệm và không chấp nhận chủ nghĩa giáo điều. Nếu có một tôn giáo nào tương thích với khoa học hiện đại, đó chính là Phật Giáo.




Bạn Ơi Hãy Cùng Nhau Đấu Tranh Cho Cuộc Sống Của Mình & Tương Lai Của Con Cháu Mình !!!



Nhân Dân Cần Nhận Diện Bộ Mặt Thật Của Giới Cầm Quyền. Phải Hành Động Cụ Thể Đối Với Bọn Chúng !!!



Chỉ Mặt, Nhận Diện Bọn Cán Bộ Óc Đất, Lũ Công An Lưu Manh, Đám Quan Chức Tham Nhũng, Tay Sai !!!

Công Nhân Bị Đánh Đập Tàn Nhẫn, Dã Man !!!


Followers