Tình trạng vong thân này đã thể hiện lõa lồ trên màn ảnh truyền hình đài Bắc: con gái Việt Nam được bán đấu giá, và bày bán trong tủ kính ở Singapore, hay bán dâm ở cây số 11 bên xứ chùa Tháp, rồi làm cô dâu bên Ðài Loan, Hàn Quốc; hàng ngàn cô gái muốn bán dâm cho người ngoại quốc! Giáo dục thì phá sản, sách không ra sách, thầy không ra thầy, trò không ra trò, thi cử thì giả dối gian lận. Học thì tối tăm nhưng bằng cấp thì to: tiến sĩ, thạc sĩ nhiều như sâu bọ. Lịch sử thì chỉ dậy kể từ khi có đảng cộng sản mà thôi. Ðến nỗi học sinh phổ thông cấp hai không biết Trần Hưng Ðạo, vua Hùng Vương là ai? Thê thảm đến thế là cùng. Tình trạng băng hoại hết thuốc chữa! Nhà văn Trần Nhu |
Giặc Tầu đô hộ nước ta một ngàn năm không ai vong thân, không ai lẫn lộn căn cước. Giặc pháp đô hộ Việt Nam một trăm năm, dân Việt Nam vẫn là Việt Nam. Giặc Hồ mang học thuyết cộng sản vào cai trị nước ta mới có 60 năm dân bị lẫn lộn căn cước và vong thân. Xã hội Việt Nam từ khi lập quốc cho tới nay chưa có thời nào suy đốn như thời Hồ.
Bài này tác giả trình bày sự kiện và nguyên nhân vì sao giặc Hồ và Đồng đảng thực thi âm mưu này và hậu quả của kế hoạch ấy đối với dân tộc.
ÐCSVN xóa bỏ nền văn hóa truyền thống và hủy diệt các di tích lịch sử và văn hóa
1. Xóa bỏ văn hóa truyền thống.
Người Cộng sản chủ trương xây dựng nền văn hóa Mác-Xít Duy Vật để thay nền văn hóa duy tâm truyền thống của dân tộc Việt Nam được xây dựng gần 5,000 năm trên nền tảng: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và đó cũng là nền tảng của mọi tôn giáo. Và hủy diệt luôn tất cả mọi cảm nghiệm tâm linh man mác sâu thẳm trong con người Việt Nam.
Học thuyết duy vật, mà Hồ chí Minh mang vào Việt Nam, nhằm thay con người Việt Nam thành con người xhcn vô gia đình, vô luân, vô đạo, vong bản, vô trách nhiệm, chỉ biết hận thù giai cấp. Vì thế mọi giá trị, biểu tượng thiêng liêng của đạo đức, và trí tuệ tột đỉnh của dân tộc Việt Nam bị coi là đối tượng nguy hiểm, là kẻ thù số một cần phải đào tận gốc trốc tận rễ.
Vậy làm thế nào thực hiện nhiệm vụ kéo sụp đổ cả một vũ trụ tâm linh, tình cảm, tâm lý, ý thức dân tộc của con người cũ? Con người chủ nghĩa xã hội khoa học duy vật, phải đánh vào mối quan hệ gia đình trước tiên: mối tương quan liên hệ giữa vợ chồng, giữa cha con, giữa người với người. Ðánh vào cả “xác” lẫn “hồn”. Ðánh vào những sợi dây vô hình kết hợp cái tinh anh của vũ trụ, của kiếp người. Mà gia đình là tế bào gốc trở thành mục tiêu đầu tiên bị triệt hạ. Những tế bào hạt nhân họ hàng, gia tộc, làng xã Việt Nam là những thành lũy phòng thủ cuối cùng của nền văn hiến, văn hóa truyền thống chống lại văn hóa “duy vật” của đảng CS.
Ðây là một đòn hết sức hiểm độc
Về phương diện nhân bản, gia đình là cái nôi nuôi dưỡng, nơi nương dựa an toàn êm ấm nhất. Nó là tổ ấm để an ủi con người. VớI chính sách phá tan sự “liên lụy”... của sợi dây tình cảm gia đình, Ðảng CSVN, không cho phép các thành viên trong gia đình đùm bọc, thương yêu hoặc an ủi nhau lúc gặp hoạn nạn, khó khăn... Ðiều này được bộc lộ hết sức rõ rệt, trong các chiến dịch CCRÐ năm 1954-1956. Gia đình thân nhân được khuyến khích đấu tố công khai, lên án hành hạ, sỉ nhục nhau. Cứ điểm cuối cùng kết liễu tình thân ái vợ chồng, cha con, họ hàng, xóm làng là gia đình bị thanh tóan . Nhiều người vì thế tự tử. Hàng triệu triệu gia đình phải đối mặt với tai họa khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người.
Ðảng CSVN đứng đầu là HCM theo chỉ đạo của cố vấn Trung Cộng đã đánh những đòn trí mạng vào nền tảng đạo lý gia đình Việt Nam.
Khi con tố cha, vợ tố chồng..., thì không có cách nào chuộc lại được sự phản bội của mình. Một vết thương không thể lành, nhiều người chết ôm hận xuống mồ! Còn những người bị quẳng vào các trại cải tạo khi có cơ may sống sót trở về quê hương, họ rất khổ sở... và không chấp nhận vợ con... Nhưng có điều họ không nhận ra thủ phạm chính đã gây ra thảm kịch này là những con quỷ sáng tạo ra học thuyết “Ðấu tranh giai cấp”, và những con quỷ đã lãnh đạo thực hành việc đấu tranh giai cấp. Ở miền Bắc Việt Nam những kẻ ấy đã tự nhận là kẻ theo CNXH khoa học, chủ nghĩa duy vật khoa học và tự hào là đã làm “chủ quy luật khách quan, làm chủ thiên nhiên và làm chủ lịch sử” và đứng ở “trên đỉnh cao trí tuệ v.v...” Nhưng họ lại hoàn toàn vô ý thức về cái nhân tính của chính họ. Họ đi làm cách mạng để thay đổi thế giới và cải tạo “loài người”. Nhưng họ lại vô ý thức vì cái muôn thuở, bẩm sinh của tình cảm tư hữu, tình cảm quốc gia, gia đình họ hàng. Nếu ba thành tố cơ bản này thiếu vắng một thì đó sẽ là một xã hội suy đồi băng hoại và quốc gia đó không bao giờ vươn lên thành một xã hội văn minh. Cộng sản chủ trương xóa bỏ cả ba thành tố căn bản đó. Họ chỉ có thể kéo xã hội trở lại thời kỳ đồ đá.
Cộng sản chủ trương “giai cấp vô sản không có tổ quốc”. Họ muốn xóa bỏ ranh giới quốc gia. Xóa bỏ văn hóa truyền thống, để chỉ còn một thứ vô sản duy nhất. Việc đầu tiên người CS thực hiện là xóa bỏ các đơn vị “gia đình”, là những vệ tinh tế bào trong cộng đồng dân tộc, tương tự như những hạt nhân xoay quanh các vòng tròn lớn nhỏ quy tụ: gia đình, họ hàng, thân tộc, làng xã đến quốc gia.
Muốn xóa bỏ ranh giới quốc gia trước tiên phải xóa bỏ đơn vị nhỏ nhất là “gia đình”. Ở Campuchia, sau chiến thắng của Khờ Me Ðỏ năm 1975 Pol Pot đã vội vã thiết lập CNXH, một xã hội không có giai cấp. Không có cách biệt giữa thành thị và nông thôn, không còn giau nghèo, không có tiền tệ và thương mại. Các gia đình bị “xóa bỏ”. Và thay vào đó bằng các đội lao động, gần giống như các hợp tác xã nông nghiệp cao cấp, hay nông trường tập thể ở miền Bắc thập niên 70-80. Tất cả đều phải làm việc ăn chung, mặc bộ quần áo đồng phục mầu xanh hoặc đen. Sau khi bị hủy diệt về tinh thần và thể xác đến năm 1978, một phần ba dân số đất chùa Tháp đã bị giết!
Ở miền Bắc VN trong thời kỳ CCRÐ 1954-1956, Ðảng CS Việt Nam cũng giết chóc tùy tiện bừa bãi, để tạo ra sự khiếp sợ tối đa trong dân chúng. Những người lãnh đạo đảng muốn loại bỏ hẳn ý thức hệ cũ (phong kiến). Giáo dục ý thức hệ XHCN dể đào tạo con người mới. Hồ chí Minh thường dạy các đảng viên muốn xây dựng XHCN trước hết phải có con người XHCN. Chiến lược “trồng người” xuất phát từ đó.
Trong một xã hội bình thường, mọi người tỏ sự quan tâm và tình cảm với nhau. Tôn kính hiếu thảo với cha mẹ, thân thiện với người láng giềng như anh em ruột thịt của mình, và hòa đồng với làng xã. Nhưng chủ trương đấu tranh giai cấp của ÐCSVN khuyến khích sự hằn thù, phân chia xã hội thành nhiều loại người và luôn luôn khích lệ nhân dân giết hại lẫn nhau, và nó cố làm cho mọi người trở nên thờ ơ lãnh đạm với nhau, không ai yêu thương ai.
Mặc Tử nói: “Kiêm tương ái, giao tương lợi”. Ông cho rằng sở dĩ xã hội đương thời đại loạn nguồn gốc của nó chính là ở chỗ quan hệ giữa con người với con người không yêu mến lẫn nhau!
Thời kỳ CCRÐ nông dân miền Bắc không còn gì cả. “Ngay cả những quyền quyến luyến yêu thương cũng bị nghiêm cấm, con người sống trơ trọi không có bạn hữu, không có láng giềng, không có quyền cảm mến, quyền làm người bị chối bỏ, tài sản không được thừa nhận dù chỉ là một túp lều, dù chỉ là một tấc đất, dù chỉ là một nấm mồ”.Và giết người, đập phá đền miếu... đã trở thành phong trào thi đua của Ðoàn thanh niên HCM, giết tróc đập phá, đào mồ mả ông cha để bày tỏ lòng trung thành tuyệt đối với Bác Ðảng. Các cháu ngoan “bác Hồ” hô những khẩu hiệu vang trời dậy đất: Hồ chí Minh muôn năm. Mao chủ tịch muôn năm”, đả đảo địa chủ cường hào ác bá v.v...” và hát bài:
Giết, giết nữa bàn tay – không phút nghỉ
Cho ruộng đồng, lúa tốt – Thuế mau xong
Cho đảng bền lâu cùng – Rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin bất diệt.
Thiếu nhi cháu ngoan bác Hồ xem cảnh chém giết là bình thường; các cháu trở nên quen với cảnh đổ máu. Một số lớn bắt đầu cảm thấy hứng thú. Thế hệ trẻ bị giáo dục theo tư tưởng vô thần của chủ nghĩa cộng sản không còn nể sợ điều gì. Bất luận một con người kia, sinh ra trong một gia đình nông dân thuần phác, hiền lành và hiếu thảo với cha mẹ đến đâu, hễ đã gia nhập vào đoàn thanh niên HCM liền biến thành một phần tử trong lực lượng phá hoại, ai càng trong trắng sẽ càng trở thành kẻ phá hoại mạnh. Ðảng CSVN dưới sự lãnh đạo của HCM đã biến con người thành quái vật, bởi bản thân nó tàn bạo hơn bất kỳ một con quái vật nào.
Ðây là một sự thật, đang được chính các đảng viên phản tỉnh khui ra.
Cộng sản, nguy hiểm, kinh khủng hơn bất cứ một thứ bệnh dịch nào mà vi trùng của nó len lỏi khắp các bộ phận cơ thể, gặm nhấm các tế bào, sản sinh độc tố khiến cho các tế bào chung quanh cũng lây nhiễm. Nó khuếch tán bao nhiêu chất độc hại, đầu độc xã hội. Mỗi thế hệ lại đắp lên một tầng về nhiều mặt ác độc, dối trá, lừa phỉnh khác nhau. Kết quả khiến xã hội Việt Nam ngày nay trở nên ô nhiễm, giá trị đạo đức văn hóa ngày càng bị xói mòn.
Là một phật tử, tôi thực lòng muốn xả bỏ quá khứ, vứt hết cho nhẹ. Sống hòa hợp. Tổ tiên ta dạy: một điều nhịn, chin điều lành. Chữ HÒA trở thành cốt tủy của văn hóa và đời sống Việt. Nếp sống hòa hợp và bao dung ấy như sợi chỉ vàng rực rỡ xuyên suốt trong dòng lịch sử dân tộc ta.
Con người Việt nam lấy thiện làm gốc, tình nghĩa làm đầu, nên oán thì phải giải. Thù thi lại càng cần phải quên. Nhưng không hiểu sao mỗi khi cầm bút viết, lại không sao quên được những thành tích khát máu của ÐCS hồi CCRÐ. Tôi mới lớn lên thấy ai cũng sợ hãi quá, trước sự tàn ác vô đạo trong giết chóc liên miên..., mạng sống của mọi người trong xã hội bị đe dọa thường trực, nên không ai dám có phản ứng gì. Ðảng CS và HCM đã biến người thành sói, con người XHCN do HCM đào luyện thậm chí còn dữ hơn cả sói. Vì sói chúng không ăn thịt con. Nhưng dưới sự cai trị của ÐCS, cha mẹ vợ chồng tố cáo lẫn nhau là điều bình thường. Các chiến dịch trên quy mô lớn được thực hiện từ giết tróc ở nông thôn, giết tróc ở thành thị, từ truy lùng các phần tử phong kiến phản động... đến xóa bỏ các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, lịch sử, giáo dục.
2. Hủy diệt di tích văn hóa lịch sử.
Triệt phá các công trình văn hóa, đập phá đình chùa, miếu mạo các văn chỉ được thực hiên trong một kế hoạch quy mô, có tính toán, trên cả nước, gồm cả mở những chiến dịch đào mồ mả tổ tiên trong đó có nhiều vị anh hùng dân tộc.
Tới thời kỳ “mở cửa” trong bài ký sự “Tiếng kêu cứu một vùng văn hóa”, Ông Võ Văn Trực một đảng viên kỳ cựu, đã mô tả nỗi kinh hãi, đau xé ruột gan khi thấy những di tích văn hóa như đình chùa miếu mạo, các nhà thờ họ ở khắp quê ông bị đập phá, cùng với những chiến dịch đào bới mồ mả tổ tiên, do đám thanh niên mới lớn lên trong thời kỳ CCRÐ vào thời kỳ chúng sửa soạn bước vào thế giới thù nghịch ngay chính đối với ông cha mình. Về việc phá hoại các đình chùa, một chuyên gia Ba Lan đã phát biểu: “Hiếm có một đất nước như Việt Nam, làng nào cũng có đình chùa, miếu mạo là một mặt biểu hiện của nền văn hiến dân tộc. Lạ thay, Nền văn hiến ấy đang bị hủy hoại.” Cũng là CS nhưng người CS Ba Lan, không u tối cuồng tín như HCM và đám lãnh ÐCSVN. Sự đập phá ấy diễn ra từ trong lòng thủ đô Hà Nội nơi HCM và những người lãnh đạo đảng đang sống. Nó lan ra toàn quốc. Ở Nghệ An, thời kỳ “cởi trói” cho văn nghệ sĩ năm 1987 một cán bộ văn hóa của tỉnh nói mỉa mai rằng: “Về cơ bản, tỉnh nhà đã phá xong những di tích lịch sử”. Ðó là lời nói của một cán bộ CS làm công tác văn hóa.
Trước năm 1945 ở Miền Bắc, làng nào cũng có đình chùa, miếu mạo. Sau 1945, dù trải qua chiến tranh hang vạn ngôi chùa với di sản vô giá, nhiều pho tượng hay đồ phật tự được lưu truyền từ thới nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê và Nguyễn vẫn còn nguyên vẹn. Trong thời gian CCRĐ, đình chùa, miếu mạo và các cổ vật ấy bị phá sạch ví đó là tàn dư của phong kiến.
Chim có tổ, người có tông. Hồ chí Minh và bè đảng đã phá sạch những di tích lịch sử được tạo dựng lên hàng ngàn năm. Phá sạch sẽ những đình, chùa, miếu mạo, biểu tượng của nền văn hóa dân tộc. Hủy diệt truyền thống đạo lý, nhân nghĩa làm biến dạng những khuôn mặt phúc hậu chốn đồng quê. Ðồng quê Việt Nam là cơ sở bền vững để bảo tồn sức sống và văn minh dân tộc mà bao thế hệ đã đổ xương máu, mồ hôi để vun đắp. Bao nhiêu tầng cao văn hóa được xếp lên với chiều cao bốn ngàn năm lịch sử đầy kiêu hãnh bỗng đổ vỡ tan tành!
Hèn hạ hơn cả là việc lén lút giấu mặt để bè đảng đào mồ, phá đền thờ các vị vua, những cuộc tấn công đầu tiên nhắm vào các vị anh hùng dân tộc, nổi tiếng như vua Trần Nhân Tông, Lê Ðại Hành, Hai Bà Trưng v.v... Ðể hiểu rõ nhiều khía cạnh và góc độ của việc thẩm định những vấn đề lịch sử, được khách quan hơn, chúng ta phải đọc các tập sách và nghiên cứu văn học trong thập niên 60 ở miền Bắc. Trước hết là chúng ta nghe những buổi nói chuyện với giáo sư Nguyễn Huệ Chi trên đài RFI tháng 7-2005, với bà Thụy Khê được ghi lại trên “thế kỷ 21” tháng 9 – 2005. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi nguyên là Chủ Tịch Hội Ðồng Khoa Học của Viện trong bẩy năm, nguyên là trưởng ban văn học cổ cận đại của viện trong gần 30 năm ở Hà Nội chắc những bài viết và ý kiến của giáo sư này mang một ý nghĩa trung thực và công tâm đối với lịch sử. Dưới đây tôi xin trích dẫn một số câu hỏi của bà Thụy Khuê và trả lời của giáo sư Nguyễn Huệ Chi về vấn đề phá hoại các di tích lịch sử.
“Thụy Khuê: Việc đốt phá sách, dường như đi đôi với việc phá phách các di tích lịch sử và anh cũng đã từng chứng kiến nhiều lần. Vậy có thể nói, chúng ta rút ra được những kinh nghiệm gì về những vụ tàn phá di sản văn hóa này?
Nguyễn Huệ Chi: Trong mấy chục năm đi điền dã để làm bộ Thơ Văn Lý – Trần, chúng tôi đã thấy không biết bao nhiêu di tích bị tàn phá một cách vô tội vạ, mà cái người chủ trương tàn phá, phải nói, hoặc là, biểu hiện của một thứ cực đoan không thể chấp nhận được nữa; hoặc nữa là, có một sự thù hằn gì ghê gớm đối với lịch sử, hay cũng có thể là hách dịch đối với lịch sử, cho nên họ đã đập phá tàn bạo. Chẳng hạn như di tích nơi vua Trần Nhân Tông tịch ở Am Ngọc Vân phía Tây núi Yên Tử, một ông Vua anh hùng khoáng đạt như thế có tội tình gì để họ phá cho tan tành? Hay vì đã không “cực quyền” như họ? Lại chẳng hạn như việc phá đình phá chùa trong chủ trương “hộ tụ” năm 1948 đã làm mất bao nhiêu di tích văn hóa quý giá từ lâu đời ở Nghệ Tĩnh, ấy thế mà việc đó lại được lập lại với quy mô rộng rãi ở hầu khắp miền Bắc trong những năm 60 thế kỷ XX. Tôi còn nhớ là vào ngày 9/5/1966, tôi đến thăm cụ Lê Thước, một học giả nổi tiếng ở Chợ Hôm thì gặp lúc nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản cũng đến và ông ấy đã trình bày với cụ việc một ngôi đền thờ nữ tướng của Hai Bà Trưng ở Mai Ðông, tức Hà Nội ngày nay, bây giờ là trong “nội thành” đã bị cán bộ chỉ đạo đem hoành phi câu đối và cỗ kiệu ra làm bàn ghế và xe phân cho hợp tác xã. Ông Nguyễn Bá Khoản đã chụp trộm được mấy tấm ảnh và suýt nữa thì bị dân quân tự vệ bắt và tịch thu máy nhiếp ảnh. Khi ông ấy đã chạy thoát rồi vẫn còn nghe văng vẳng ông Bí thư đảng ủy: “Hãy bắt gông nó lại, tội vạ gì tôi chịu”. Ông Khoản kể lại với tất cả cái thảng thốt và bất bình của mình.
Ở đây ta thấy giáo sư Nguyễn Huệ Chi, tuy không chỉ đích danh người chủ trương đó và thù hằn lịch sử ghê gớm đối với lịch sử đó là ai? Nhưng ai cũng biết rõ đó là Hồ Chí Minh. Ðọc tới đây tôi lại chợt nhớ tới chuyện đào mồ tổ tiên trong bài ký sự “Tiếng kêu cứu của một vùng văn hóa” của Võ Văn Trực, thời mở cửa đã miêu tả như sau:
“Ba năm sau một đoàn thanh niên khác lại được huy động để đào kỳ được hài cốt của Võ Tướng Hùng Lê Bá. Do lòng kiên nhẫn, lần này họ đã tìm được. Mấy bô lão ôm hài cốt, nước mắt chảy ròng ròng, rồi kéo nhau lên gặp ông chủ nhiệm hợp tác xã xin một ít tiền mua tiểu sành đựng hài cốt. Ông Chủ Nhiệm trừng mắt nói như đinh đóng cột: Mộ vua chúa, mộ thượng thư cũng đập thành đất, mộ ông tướng của các cụ đã ra cái gì?”
Ðược đào luyện trong lò “trồng người của HCM – tên Bí Thư Ðảng Ủy ở Hà Nội và tên cán bộ chủ nhiệm hợp tác xã ở Nghệ An giống nhau như đúc.
Trong một bài khác trên trang WEB: http://www.talawas.org GS Nguyễn Huệ Chi kêu gọi rằng: “Việc xây dựng chiếc cầu nối giữa văn hóa truyền thống với thế hệ hôm nay là điều hết sức cần kíp.” G.S nói rằng các di tích cổ VN đã bị đối xử tệ hại:
“... Tại sao đi thăm viếng di tích của các nước, thấy người ta chăm chú, trân trọng từng hiện vật rất nhỏ, rồi trở về nhìn lại cung cách tu bổ chăm nom di tích của nước mình thì lại có tâm trạng xấu hổ đến chán ngán? Hầu như khắp đất nước, đâu đâu cũng tôn tạo lại đình, chùa, miếu mạo mà một thời đã từng bị đập phá tan nát, nhưng than ôi tôn tạo theo cái kiểu bôi xanh bôi đỏ lòe loẹt, chữ Hán viết đã xấu lại sai, bẩn và cứ đến đình miếu nào cũng chỉ thấy rặt một vài câu sáo rỗng (...) (dùng tiền LHQ, UNESCO dểvụ lợi)….
Trèo lên Ngọa Vân Am ở phía tây hòn Yên Tử, ở độ cao khoảng 1,000 mét, nơi người anh hùng kia lãnh đạo cả nước chống giặc Nguyên cũng là vị tổ của nền phật giáo thống nhất đời Trần: dòng Thiền Trúc Lâm – Trần Nhân Tông – an tịch, người ta thấy choáng váng đến sững sờ: ngôi Tháp Phật Hoàng tức tháp Vua Trần Nhân Tông cao sừng sững, bị đào rỗng ruột, đứng vật vờ trước gió, bài vị bằng một tấm đá đen và một tấm đá bán nguyệt rất lớn khắc mấy chữ “Phật Hoàng Tháp” thật đẹp trong niên hiệu Minh Mạng (1839) bị đập thành nhiều mảnh. Một tấm bia cao lớn đề năm 1689 do chúa Trịnh Căn cho khắc để ghi nhớ việc ông dẫn các con vương tử và quận chúa, trèo lên đây chiêm bái người anh hùng, cũng bị đập thành năm bẩy mảnh.
Bên cạnh đó, ở một ngọn núi khác có động Hồ Thiên nằm ở độ cao khoảng 800 mét, cũng là nơi Trần Nhân Tông tu phật. Có nhiều ngôi tháp rất đẹp phía dưới bằng đá xanh phía trên bằng đá đỏ gắn khít với nhau không hề thấy dấu vết vôi vữa, đều bị phạt ngang hết cả. Một ngôi thạch thất được kiến tạo bằng những tấm đá xẻ mỏng rất to lớn nguyên phiến không chắp. Kể cả hai mái cũng bằng đá, cũng bị đào rỗng phía dưới và đập vỡ mất một bên vách, mà ở trong còn đựng một tấm bia chạm khắc tinh xảo vào thế kỷ XVIII (tấm bia sẽ đổ bất cứ lúc nào).
Xem đoạn văn trên ta thấy các vua chúa sau Trần Nhân Tông, đều đến Ngọa Vân khắc bia và chiêm bái người anh hùng dân tộc. Ðến cả người phương Bắc cựu thù địch thủ, không thể không kính phục và nể trọng những con người như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Ðạo. Chỉ Hồ Chí Minh và đồng đảng lại phỉ báng tiền nhân, lên án tiền nhân là phong kiến... Là người dân Việt Nam ai cũng biết chiến công đáng ca ngợi nhất, vinh quang nhất và khó khăn nhất là cuộc chiến giữa quân dân nhà Trần và giặc Nguyên. Và đây còn là một cuộc chiến vô ngã... Cái hùng khí và tính bất khuất không chỉ có một vài người mà tất cả toàn dân: đã đem máu, nước mắt, mồ hôi, trí huệ nhiệm mầu để thay thế cho thành quách và gươm đao để ngăn ngừa vó ngựa Thành Cát Tư Hãn, mạnh như những cơn gió lốc đã cuốn đi hàng trăm những thành trì kiên cố khắp thế giới... Ngăn lại mà không hủy diệt, phóng thích 6 vạn quân Mông Cổ, đai xá cho tất cả những kẻ phản bội, ngăn lại mà vẫn nở những nụ cười nhân ái với kẻ cựu thù địch thủ. Ðau khổ mà không nuôi dưỡng oán thù. Phẫn nộ nhưng vẫn chính trực và không độc ác. Kiên cường mà vẫn nhân từ.
Ngày nay nhìn lại những trận đánh cách đây trên bẩy trăm năm. Ai yêu nước thương nòi không khỏi kính trọng ông cha mình. Thế mà bọn Hồ Chí Minh đã cho đồng đảng đập phá mộ phần và đền thờ các vị anh hùng dân tộc.
Và nay thì sao?
Ðến đây xin dừng lại để bạn đọc xem tiếp bài viết của GS Nguyễn Huệ Chi về hiên trạng.
“Không thể không nhắc lại rằng từ hơn 50 năm lại đây, văn hóa truyền thống đã trải qua một “đại nạn. Vì nghĩ rằng là những tàn tích phong kiến, chúng ta đã công nhiên lên án chúng, thẳng tay “đàn áp”, “xử tội” chúng; đã để cho bao nhiêu đình chùa, bia mộ, sách vở quý giá ở khắp mọi vùng vị đốt phá, hoặc mất mát hư hỏng mà không một chút động tâm, như nhiều thế hệ đã tận mắt nhìn thấy” ...
Tuy nhiên, một chi tiết cho thấy tấm lòng trong sáng của các sử gia và khảo cổ Việt Nam khi ra sức gìn giữ di tích. Ðặc biệt, các vị đã cứu được ngôi chùa Diên Hựu khỏi bị phá sập để xây lăng Hồ, như tiết lộ sau:
“Nhân nói về Hồ Chí Minh, tôi nhớ lại có nhiều lần đưa khách nước ngoài đi thăm một số di tích ở Hà Nội, nhưng cứ hễ đến ngắm cảnh quan chùa Một Cột hiện nay là ai cũng ngao ngán lắc đầu. Bảo tàng Hồ Chí Minh đã choán hết không gian của cụm chùa Diên Hựu và chùa Một Cột, đến nỗi mới nhìn tưởng đâu như cụm di tích này là một thứ công trình phụ nép vào bảo tàng, hoặc được mọc lên từ một đáy giếng ... (...)”
Sau khi tìm địa điểm làm bảo tàng Hồ chí Minh người ta không thèm hỏi gì giới chuyên môn, để cho một di tích vào loại cổ nhất Thăng Long và là một biểu tượng của Thăng Long ngàn năm văn vật, nên nhớ là vào năm 1954 khi người Pháp rút khỏi nơi đây có kẻ nào đó muốn phá biểu tượng kia đi đã manh tâm giật sập chùa Một Cột. ( Kẻ nào manh tâm giáo sư không vạch mặt chỉ tên, nhưng ai cũng biết là Hồ Chí Minh): phải lâm vào tình trạng bị “cớm” một cách tệ hại mà khách nước ngoài cũng phải thấy là bất nhẫn? Chẳng lẽ với cơ chế này trí thức chẳng một ai có cơ hội bộc lộ chính kiến thật của mình hay sao? Hay người ta có hỏi mà không ai dám trả lời?
Không giải đáp nổi thắc mắc cho mình, tôi bèn cất công đi tìm, thì hỡi ôi, lại còn biết thêm một sự thật bàng hoàng hơn! Khi xây bảo tàng, thấy chùa Diên Hựu đứng đó làm vướng víu công trình tưởng niệm Bác. Một chức sắc cao cấp trong ngành xây dựng chịu trách nhiệm thi công đã ngấm ngầm lệnh cho thợ xây phun nước liên tục vào chùa cho nó sập quách đi, may mà về sau có người – GS Trần Quốc Vượng – tìm mọi cách “rỉ tai” nên trước nguy cơ ngàn cân treo sợi tóc, ngôi chùa vẫn còn giữ được “cái mạng” già lão. Nghe rồi bần thần mất một lúc, lại liên tưởng đến bọn Taliban đã phá hại tượng Phật khổng lồ ở Afghanistan hóa ra mọi cái đầu độc tôn bản chất đều giống nhau, chỉ khác về tầm mức...
Trên đây là một phần bài viết của GS Nguyễn Huệ Chi. Còn nhiều bài viết về vấn đề triệt phá các di tích lịch sử. Không thể nêu hết. Thời “mở cửa” báo Văn Nghệ năm 1990 có bài phóng sự, ký sự của tác giả Xuân Ba “Huyện hai vua ở Thọ Xuân xứ Thanh góp cho triều Tiền Lê một Lê Hoàn và Lê Hậu là Lê Lợi khởi đầu cho 30 vị vua sau này.” Lê Hoàn và Lê Lợi đều là những vị anh hùng dân tộc. Nhưng đền thờ các vị vua đó đã bị tàn phá và biến thành trại chăn nuôi. Bài phóng sự khá dài chỉ xin dẫn ra đây một đoạn:
“Làng Trung Lập sinh ra Lê Hoàn, chẵn ngàn năm rồi mà tên làng vẫn không thay đổi từ thời Ðinh: phong thủy hiểm yếu đắc địa như thế nào chẳng biết, nhưng Trung Lập như một cái gò lớn được bồi tích bởi phù sa của sông Cầu Cháy, trước có tên là Trùng Giang và sông Chu (xưa có tên là Lương Giang). Ðợt khảo cổ năm 1985 đã tìm thấy ở Trung Lập trống đồng, bình khạp, mũi tên giáo mác bằng đồng có niên đại cách đây 2500 năm. Cách đây 3000 năm đã có người Việt cổ sinh sống ở bãi bồi hai con sông lớn này như bây giờ dân Trung Lập cư trú vậy! Năm Ất Tý 1005 vua Lê Ðại Hành mất.
Làng Trung Lập chỉ có một ngôi miếu nhỏ ngay trên túp lều ngày trước mẹ con Lê Hoàn từng sống. Ðầu thời Lý, vua Lý Thái Tổ cho xây dựng đền thờ theo hình chữ công. Lạ nữa, qua từng ấy năm, những tao loạn trận mạc lẫn sức tàn phá của thời gian mà ngôi đền thiêng liêng này vẫn được giữ gìn cho đến ngày nay! Hiềm nỗi cũng cách đây chả lâu mấy: ngôi đền thiêng gồm nhà tiền đường năm gian, trung đường ba gian, hậu cung năm gian mà dân Trung Lập quen gọi là Nghè bị coi là tàn dư của đế quốc phong kiến một thời gian dài, hết thành trại chăn nuôi rồi nhà kho. Ðồ thờ tự trong nội cung bị thất tán bị phá khá nhiều. Nhưng may gần đây đã được tôn tạo bổ sung nên vẫn giữ được vẻ nghiêm ngắn khang trang như bây giờ.
Ðây là công trình kiến trúc cổ độc đáo vào loại bậc nhất còn lại ở đất Thọ Xuân.
Hậu thế rồi phải biết ơn những người có tên lẫn vô danh ở làng Trung Lập đã từng cất giữ những hiện vật tỷ như chiếc đĩa đá, dân còn gọi là đĩa Ngọc do vua Tống Thái Tông là Triệu Khuông Nghĩa tặng vua Lê Ðại Hành năm Canh Dần (990). Ðĩa đường kính 47,5 cm giờ vẫn rõ nét hai hàng chữ Giang Nam nhất phiến tuyệt, Tác Khí vạn niên trân (Giang Nam có phiến đá sắc trắng tựa tuyết làm thành vật quý vạn năm). Dưới dòng lạc khoản đã mờ là chiếc chĩnh chiên quốc ấn của vua Tống...
Rồi còn những đạo sắc phong nữa chứ! Trong âm thanh chói gắt trống kẻng của khí thế hừng hực truy lùng tàn dư phong kiến vào những năm khó khăn ấy. Những ai đó đã đủ tỉnh trí lẫn lanh khôn đút vội chúng vào đòn tay ống luồn rải rác ở một số nhà. Thất thoát bao nhiêu chả biết nhưng bây giờ giữ đều may mắn có 14 đạo sắc phong của các triều đại. Cố nhất là triều vua Gia Long (năm Giáp Dần 1674(?)). Mới nhất là Ðồng Khánh nhị niên (1888). Rồi còn chiếc chậu men Làm thời Hậu Lê kia, một báu vật thờ cúng của đền may sao không đem đi muối cà hay đựng mắm hoặc rơi vào tay bọn bất lương chuyên săn lùng đồ cổ! (...)”
Về vua Lê Ðại Hành, Ðại Việt Sử ký toàn thư ghi: “Lê Ðại Hành giết Ðinh Ðiền, bắt Nguyễn Bặt đánh Quách quân Biện, Triệu Phụng Huân, Quân xâm lược nhà Tống dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ chưa đầy vài năm mà bờ cõi đã yên tĩnh. Cái công đánh dẹp ấy tuy nhà Hán, nhà Ðường cũng không hơn được.”
Những người anh hùng có công lớn với Tổ quốc Lê Ðại Hành, đã bị HCM và đồng đảng CS của y “truy lùng gắt gao” tác giả bài ký sự mô tả bọn cộng sản “khí thế hừng hực” chắc trong lòng dạ bọn chúng phải căm giận ông cha ta lắm, bọn chúng rất xa lạ với tiền nhân. Trong cái thời khắc nghiệt gắt gao đó nhân dân đã phải bỏ cả ngày kỷ niệm các vị anh hùng dân tộc.
Thời trước vào những năm chẵn, dịp mồng tám tháng ba âm lịch đúng ngày mất của Lê Hoàn (vua Lê Ðại Hành) có lễ ở đền rất trọng gọi là Quốc Lễ: “Nếu không có quan ở triều đình về trực tiếp lễ tế, thì quan đầu tỉnh phải làm phận sự ấy”.
Truyền thống thờ cha kính mẹ đã được chuyển hóa từ mỗi gia đình Việt Nam ra đến ngoài quốc gia xã hội đều là nền móng cơ bản của các mối dinh dưỡng, hỗ tương trong đời sống xã hội, từ thế hệ này qua thế hệ khác trong xã hội Việt Nam. Ðây là một sợi dây vô hình đã liên kết và thống nhất được tất cả các sinh mệnh, tính mệnh của văn hóa, văn hiến trong suốt 4000 năm lịch sử. Cuộc sống Ðạo lý và văn hóa nẩy sinh ra những chồi non và cứ thế nối tiếp. Tinh thần ấy đã tỏ lộ rất rõ ràng khi toàn thể quốc dân Việt Nam tưởng đến những cổ nhân của mình, mà tất cả các triều đại, cùng con dân thời đại nào cũng bảo vệ những trùng tu Tông Miếu, Xã Tắc để thờ kính Trời Ðất. Tổ Tiên, Tiền Nhân và các vị anh hùng liệt nữ có công dựng nước và giữ nước. Nên họ đã trở về với đời sống vĩnh hằng trường cửu, bất sinh, bất diệt để làm thành HỒN THIÊNG NÚI SÔNG cho muôn ngàn thế hệ con cháu Tôn Kính và thờ lạy trong Tông Miếu. Chỉ bọn vô đạo Hồ Chí Minh không chấp nhận. Như GS Nguyễn Huệ Chí nói: “Chúng có một sự thù hằn gì ghê gớm đối với lịch sử”. Chúng thù hằn cả những người đã sinh ra chúng. Hồ Chí Minh bôn ba hải ngoại, đến lúc về nước tranh đấu, khi công thành danh toại làm chủ tịch đảng, chủ tịch nước, Ông Phó Bảng Nguyễn sinh Huy không có một nén hương trên mộ, cũng không có lễ cúng cha mẹ mình. Ông làm gương cho toàn đảng, toàn dân nên chỉ có cúng Mác Lênin, thờ Stalin, thờ Mao Trạch Ðông. Còn ông cha tiền nhân bị lên án là phong kiến, nên đã cho bọn lâu la phá sạch!
Trong khi người Việt Nam coi Tổ Quốc là Ðất Mẹ. Từ trên 4000 năm qua vẫn thờ Mẹ như bóng dáng của những gì khả kính nhất, nhân từ nhất, nhẫn nhục nhất, thánh thiện nhất, bao dung nhất và tinh thần ấy đã tỏ lộ rất rõ ràng khi toàn thể quốc dân Việt Nam, từ thời vua Hùng đến nay đều gọi quê hương là Ðất Mẹ với tất cả lòng tôn kính và yêu thương nồng nàn. Chỉ có Hồ Chí Minh và đồng đảng của y là không thừa nhận. Nên nhớ rằng mãi đến năm 2000 quốc hội CHXHCN mới nhìn nhận Tổ Hùng Vương. Bởi xuất phát từ triết học vô thần, lại được những kẻ lãnh đạo u mê cuồng tín thực hiện thì tai họa khó lường.
Ðối với nhân dân, chúng chỉ dựa vào các cực hình sắt đá: bắt hàng loạt, giết hàng loạt với mục đích làm cho dân chúng ở trong nước hoảng sợ. Khổng Tử nói: “Ái dân trị quốc năng vô vị hồ” nghĩa là yêu dân cai trị mới không thể không theo lẽ tự nhiên ư?
Thuận theo tự nhiên thì không có hành động xấu xa tàn ác. Các vị vua ta coi ý dân là ý trời. Chính vì thế mà các ngài chủ trương văn trị dân chủ hiến định. Các ngài không làm theo ý riêng của các ngài. Người ta thường nghe nói: “Thế thiên hành đạo” là trong ý nghĩa đó, còn loại vua hạ đẳng như HCM là loại người chuyên dùng thủ đoạn dối trá làm cho nhân dân ngu muội, lấy ngụy trá để lừa đảo nhân dân. Ðã gọi là chính quyền thì phải “chính khí vương quyền và chính quyền là bất chính thì gọi là tiếm quyền, tà quyền, bạo quyền CS.”
Các tư tưởng trị quốc của vua ta, đều lấy “ngay thẳng” làm cơ sở, lấy “chính” để an dân, lấy chân tình để sống với người, lấy đạo đức để cảm hóa người. Còn HCM “lấy tà ngụy” làm cơ sở trị quốc. Chúng không tin vào Trời Phật, trong khi các tôn giáo truyền thống tin vào thần thánh. Ðạo Phật tin vào luân hồi và quy luật nhân quả, trái lại triết học CS hoàn toàn phủ nhận thần thánh. Ðảng CS chỉ tin vào thuyết vô thần, nên tất cả chủ trương đường lối của họ hoàn toàn đi ngược lại và mâu thuẫn với văn hóa Việt Nam. Ðảng CS Việt Nam phủ nhận dân tộc, “giai cấp vô sản không có tổ quốc” .
Văn hóa truyền thống đề cao sự thương yêu đùm bọc đồng bào trong khi cộng sản chủ trương đấu tranh giai cấp, xui đồng bào giết lẫn nhau như thú vật. Trong khi tinh thần dân tộc và văn hóa truyền thống đề cao lòng tốt, từ bi, bác ái, dung hòa: hòa đồng giữa đời sống nội tại và thiên nhiên, hòa đồng giữa gia đình, xã hội và đồng loại, dung hòa, bác ái.
Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn hay: Anh em bốn bể đều là nhà |
Đó là mối giao cảm sâu sắc giữa người và người. Ðó là thứ hương hoa của nhân bản và Văn minh hóa viết thành chữ.
Ôi! Mầu nhiệm thay, trong cái rừng ca dao, tục ngữ kia lẫn lộn vào đó bao nhiêu là thánh thư suốt chiều dài lịch sử, cũng như về khả năng dung hòa văn hiến, văn hóa trước những thử thách cam go ghê gớm của lịch sử thăng trầm ngàn năm. Ðến hôm nay đảng CS còn muốn bức tử và chà đạp lên sinh mệnh văn hiến, văn hóa dân tộc ta.
Thông thường ai cũng hiểu rằng sự phát triển của nền văn hóa làm ra lịch sử của nền văn minh của một đất nước. Sự phá hủy hoàn toàn văn hóa dân tộc sẽ dẫn tới sự diệt vong của dân tộc đó. Thí dụ những dân tộc cổ xưa có nền văn minh cao như Andes ở Nam Mỹ và nền văn minh của người Maya và Aztec ở Trung Mỹ: những dân tộc sáng tạo ra nền văn minh huy hoàng đó bị coi như đã biến mất, khi văn hóa của họ bị hủy diệt.
Ở Việt Nam sau khi đảng CS đã phá phách các di tích văn hóa, các di tích lịch sử bằng các chiến dịch truy lùng tàn dư phong kiến kéo dài nhiều thập niên. Nó lại lừa dối nhân dân và cộng đồng quốc tế là nó “kế thừa và phát huy văn hóa truyền thống và phát triển lên một mức cao hơn, sâu sắc hơn toàn diện hơn ở thời đại mới.”
Nòi giống Tiên Rồng đã xây dựng sự nghiệp gian nan trên oan khiên nghiệt ngã: đã từng thất bại và uống những chén đắng không thể nuốt nổi (một ngàn năm giặc Tầu đô hộ). Dân tộc này biểu lộ trọn vẹn cái dũng khí, thần khí, chí khí, hùng khí... , và đã vác những gánh nặng tưởng như không thể vác nổi (ba lần chống quân Nguyên) trên đôi vai để sản sinh ra những con người như Bà Trưng, bà Triệu, Lê đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Huệ v.v... Nhưng con người da vàng, gan sắt, đã chịu đựng những cơn giông bão triền miên để chứng minh về nguồn gốc Tiền Nhân của mình. Những vị anh hùng ấy, hôm nay bị Hồ Chí Minh và đồng đảng, đào mồ, phá đền thờ. Tội bọn chúng không thể tha thứ!
Nhưng đời sống thiên thu của những con người đã sáng tạo ra lịch sử dựng nước còn đó. Sự sống thiêng liêng mầu nhiệm của họ luôn luôn tác động ngấm ngầm suốt dòng lịch sử để giúp cho dân tộc này tiến hóa và trường tồn. Qua sự việc nhiều sử gia, khảo cổ gia Việt Nam đã tìm mọi cách để cứu được ngôi chùa Diên Hựu ở Hà Nội khỏi bị bọn CS đập phá, đến việc những người dân làng Trung Lập, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa là thí dụ đã dẫn. “Trong âm thanh chói gắt trống kẻng của khí thế hừng hực truy lùng tàn dư phong kiến vào những năm khó khăn ấy đã cất giấu được các bảo vật vô giá” chứng tỏ rằng con cháu Lạc Hồng không ai nhạt lòng với Tiền Nhân. Chỉ có Hồ Chí Minh và đồng đảng là những kẻ vong ân bội nghĩa.
Lương tri của mỗi người chúng ta vốn có từ trước khi chúng ta sinh ra và sẽ tồn tại đến thiên thu vĩnh cửu nếu chúng ta biết bảo vệ duy trì và phát huy nó, thì nó sẽ tương ứng đồng điệu hay đồng thanh tương ứng với một chân lý, Chân Thiện Mỹ, mà cái lương tri của người nông dân thôn Trung Lập là một thứ Ngọc Quý trong những hòn đá sần sùi, xấu xí. Đó là những tinh báu vô tì vết.
Ai hằng quan tâm đến lịch sử cũng biết từ khi Hồ Chí Minh và đồng đảng của y cướp được chính quyền, chúng đã tận dụng mọi thời cơ vào việc triệt phá nền văn hóa truyền thống Việt Nam. Ác ý này, tuyệt đối không phải là vì cán bộ “cấp dưới làm sai”. Chính sách của Hồ Chí Minh và đảng CSVN, như bọn chúng thường tuyên truyền để bao che tội ác bao nhiêu thập niên qua, mà nó xuất phát từ sự “đối nghịch” về ý thức hệ giữa chủ nghĩa CS với văn hóa truyền thống của dân tộc. Chính vì thế việc phá hoại văn hóa và các di tích lịch sử đã được lập kế hoạch có tổ chức kỹ lưỡng, có tính toán, có hệ thống được chỉ đạo từ Bộ Chính Trị.
Nhưng cho đến bây giờ, vẫn có người cho rằng HCM yêu nước. Ông yêu nước, nhưng không phải yêu nước Việt Nam, mà là yêu quốc tế CS, không theo đạo lý dân tộc, mà “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” (lời HCM). Ông ta nhận lệnh từ Nga Xô, một đất nước được ông coi là tổ quốc tinh thần, thay vì quốc gia của ông. Yêu tổ quốc là yêu chủ nghĩa xã hội, vừa yêu chủ nghĩa xã hội vừa yêu tổ quốc thì thằng người ấy không biết mình là ai nữa! Vì căn cước bị lẫn lộn. Căn cước bị lẫn lộn thì ra vong thân. Người lãnh đạo vong thân kéo theo cả đảng vong thân, các đảng viên vong thân kéo theo gia đình. Giềng mối xã hội rối loạn đến độ không vãn hồi được nữa. Xã hội Việt Nam ngày nay vong thân chưa từng có trong suốt dòng lịch sử dân tộc! Khi giặc Hồ đọc tuyên ngôn độc lập năm 1946, y lên án thực dân Pháp, nhưng tội ác của giặc Hồ và đảng cộng sản còn tệ hại hơn tội ác của giặc Pháp rất nhiều. Tệ hơn cả giặc Tầu và giặc Nguyên.
Tình trạng vong thân này đã thể hiện lõa lồ trên màn ảnh truyền hình đài Bắc: con gái Việt Nam được bán đấu giá, và bày bán trong tủ kính ở Singapore, hay bán dâm ở cây số 11 bên xứ chùa Tháp, rồi làm cô dâu bên Ðài Loan, Hàn Quốc; hàng ngàn cô gái muốn bán dâm cho người ngoại quốc! Giáo dục thì phá sản, sách không ra sách, thầy không ra thầy, trò không ra trò, thi cử thì giả dối gian lận. Học thì tối tăm nhưng bằng cấp thì to: tiến sĩ, thạc sĩ nhiều như sâu bọ. Lịch sử thì chỉ dậy kể từ khi có đảng cộng sản mà thôi. Ðến nỗi học sinh phổ thông cấp hai không biết Trần Hưng Ðạo, vua Hùng Vương là ai? Thê thảm đến thế là cùng. Tình trạng băng hoại hết thuốc chữa!./.
Nhà văn Trần Nhu
No comments:
Post a Comment