Vận mệnh đất nước
Vô Chiêu
Theo Tam Nguyên Cửu Vận thì Đảng Cộng Sản VN cướp chính quyền vào năm 1945, nằm trong vận 5 (1944-1963) thuộc hành Thổ. Đến nay là vận 8 (2004-2023) cũng thuộc hành Thổ (đang thịnh) thì hành Thổ của vận 5 đã hết thời khí nên suy sụp. Đảng Cộng Sản đang bị dân chúng chống đối, kinh tế ngày càng suy thoái, lụn bại và cuối cùng sẽ bị tan rã. Ngày tàn của chế độ Cộng Sản VN không còn bao lâu nữa, chỉ sớm hay muộn trong vài năm tới mà thôi!
Lâm Quốc Thanh là một nhà phong thủy và là người nghiên cứu nhiều về lịch sử Việt Nam. Theo ông thì việc lựa chọn một khu vực thích hợp và thuận tiện làm thủ đô bao giờ cũng là một vấn đề vô cùng quan trọng, có liên quan đến sự sống còn của một chế độ hay có khi của cả một dân tộc. Bởi thế nên từ hơn 3,000 năm về trước, các vua chúa Trung Hoa đã biết dựa vào thuật Phong thủy để tìm kiếm những vùng đất tốt đẹp cho việc đóng đô lập quốc. Có lẽ điều này giải thích lý do tại sao các triều đại phong kiến Trung Hoa thường tồn tại rất lâu dài, bền bỉ. Và mặc dù cũng phải trải qua những giai đoạn suy tàn, ly loạn, nhưng sức mạnh và nền văn minh của họ vẫn tiếp tục được duy trì và phát triển cho tới bây giờ, chứ không bị tàn lụi hẳn như những đế quốc cổ đại và trung đại khác như Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Mông Cổ, Ả Rập...
Riêng đối với dân tộc Việt, từ lúc sơ khai của thời kỳ Hùng Vương cho tới nay, thủ đô của đất nước đã được dời đi đổi lại nhiều lần và vận mệnh của dân tộc cũng vì thế mà biến đổi theo.
Từ Phong Châu (kinh đô của các vua Hùng) dời đến Cổ Loa, Phiên Ngung, Hoa Lư, rồi tới Thăng Long (tức Hà Nội), Phú Xuân (tức Huế) và Sài Gòn. Tùy theo địa thế và vận khí riêng biệt của mỗi thành phố trên, đất nước ta đã từng trải qua biết bao nhiêu giai đoạn thăng trầm. Khi thì vươn lên với một nền văn minh rực rỡ của trống đồng Ngọc Lũ, Đông Sơn. Khi thì tàn tạ, yếu kém suy vong, phải chịu đựng 1,000 năm Bắc thuộc. Rồi đến những lúc cường thịnh đủ sức phá Tống, bình Chiêm. Lại có những lúc suy yếu phải chịu sự đô hộ, sai khiến của ngoại bang...
Ông Thanh dựa vào những quy luật biến hóa tự nhiên của Tam Nguyên Cửu Vận để xác định những giai đoạn hưng vượng hoặc suy vong của đất nước trong quá khứ, hiện tại cũng như trong tương lai.
Tam Nguyên Cửu Vận
Tam Nguyên Cửu Vận là chu kỳ 180 năm được lập đi, lập lại không ngừng. Mỗi một chu kỳ được chia ra làm Tam Nguyên, mỗi Nguyên là một giai đoạn dài 60 năm, và được đặt theo thứ tự là Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Mỗi Nguyên lại được chia làm 3 Vận, mỗi Vận là một giai đoạn dài 20 năm:
-Vận 1, 2, 3 thuộc về Thượng Nguyên.
-Vận 4, 5, 6 thuộc về Trung Nguyên.
-Vận 7, 8, 9 thuộc về Hạ Nguyên.
Dưới đây là bảng Tam Nguyên Cửu Vận của 1,060 năm
Vận 1 | Vận 2 | Vận 3 | Vận 4 | Vận 5 | Vận 6 | Vận 7 | Vận 8 | Vận 9 |
964 | 984 | 1004 | 1024 | 1044 | 1064 | 1084 | 1104 | 1124 |
1144 | 1164 | 1184 | 1204 | 1224 | 1244 | 1264 | 1284 | 1304 |
1324 | 1344 | 1364 | 1384 | 1404 | 1424 | 1444 | 1464 | 1484 |
1504 | 1524 | 1544 | 1564 | 1584 | 1604 | 1624 | 1644 | 1664 |
1684 | 1704 | 1724 | 1744 | 1764 | 1784 | 1804 | 1824 | 1844 |
1864 | 1884 | 1904 | 1924 | 1944 | 1964 | 1984 | 2004 | 2024 |
Những năm ghi trên đều là những năm khởi đầu của mỗi Vận. Như năm 964 là năm khởi đầu của Vận 1, nên từ năm đó cho đến năm 983 đều nằm trong Vận 1. Đến năm 984 mới bước vào Vận 2...
Hà Nội và vận nước
Nếu nhìn lại lịch sử thì ngay từ thời Bắc thuộc, một số tướng lãnh Trung Hoa có tầm hiểu biết sâu rộng về Phong thủy như Cao Biền đã bắt đầu để ý tới địa thế tốt đẹp của Hà Nội. Bởi thế, nên ngay từ thời đó, họ đã cho xây thành ở khu vực này và đặt tên là thành Đại La, nhưng ngôi thành này thường bị bỏ trống, ít khi được chú ý tới. Phải đến khi vua Lý Thái Tổ lên ngôi, ngài thấy Hoa Lư có địa thế quá nhỏ hẹp nên mới dời đô về đây và đổi tên là thành Thăng Long (năm 1010, thuộc Vận 3 Thượng Nguyên).
Xét về vận khí thì đây chính là lúc suy vong của Hà Nội. Nhưng cũng may cho nhà Lý là Hà Nội khi trước đã bị bỏ trống từ lâu, đến lúc đó mới được chọn làm đế đô nên vận khí chưa thể ảnh hưởng mạnh mẽ ngay đến cục diện của đất nước. Mặc dù vậy, trong suốt thời gian cai trị của Ngài (1010-1028), giặc giã nổi lên khắp nơi, khiến cho nhà vua và các hoàng tử phải luân phiên đi đánh dẹp mới giữ vững được đất nước và bảo tồn được ngôi báu cho nhà Lý.
-Khi vua Lý Thái Tổ qua đời, Thái tử Phật Mã lên nối ngôi (1028), hiệu là Lý Thái Tông (trong Vận 4). Ngay lúc này, ngài đã phải lo đối phó với cuộc tranh giành ngôi báu của các hoàng tử khác, nhờ có danh tướng Lê Phụng Hiểu phò tá nên mới dẹp yên được cuộc nổi loạn.
-Năm 1038, cũng trong Vận 4, Nùng Tồn Phúc nổi loạn ở Lạng Sơn, tự xưng hoàng đế, thanh thế rất lớn, khiến vua Thái Tông phải thân chinh cầm quân mới dẹp yên.
-Năm 1044, bước sang Vận 5, vượng khí đã bắt đầu đến với Hà Nội, vua Thái Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành. Quân ta đại thắng, chiếm được kinh đô Phật Thệ của nước Chiêm.
-Năm 1048, cũng trong Vận 5, Nùng Trí Cao lại nổi loạn ở Lạng Sơn, âm mưu dựa vào nhà Tống bên Tàu để chống lại nhà Lý. Nhưng vì lúc đó nhà Tống đang suy yếu, chưa muốn sinh sự với Ðại Việt, nên âm mưu này bị thất bại. Sau đó, Nùng Trí Cao bị nhà Lý đánh, phải chạy sang Tàu cướp phá, rồi bị tướng nhà Tống là Địch Thanh dẹp tan.
-Năm 1068, trong Vận 6 Trung Nguyên, biết được Chiêm Thành bí mật liên kết với nhà Tống, không chịu thần phục nước ta, vua Lý Thánh Tông giao cho Lý Thường Kiệt đem quân đi chinh phạt. Quân ta đại phá quân Chiêm, bắt được Chiêm vương là Chế Củ. Sau cuộc chiến này, Chiêm Thành không những bị bắt buộc phải thần phục nước ta, mà còn phải cắt 3 châu dâng nạp để tạ tội.
-Vào cuối năm 1075, cũng trong Vận 6, thấy nhà Tống có ý muốn đánh nước ta, Lý Thường Kiệt liền dẫn quân sang đánh chiếm Khâm châu, Ung châu và Liêm châu của nhà Tống, phá hủy mọi căn cứ và những kho tàng quân sự rồi rút quân về.
-Đầu năm sau, vẫn trong Vận 6, vua Tống cử Quách Quỳ làm đại tướng, ồ ạt dẫn quân sang báo thù, nhưng bị Lý Thường Kiệt chận đánh kịch liệt bên bờ sông Như Nguyệt. Thấy lực lượng bị hao mòn nhiều và biết không thể thắng nổi nước ta, Quách Quỳ bèn chấp nhận giảng hòa rồi rút quân về.
-Năm 1103, vào cuối Vận 7, Lý Giác khởi loạn ở vùng Nghệ An, rồi liên kết với cả Chiêm Thành, Lý Thường Kiệt phải đem quân vào đánh mới dẹp yên.
-Trong suốt Vận 8 (1104-1123), nước ta sống trong cảnh thái bình thịnh trị.
-Bước sang Vận 9, vào những năm 1128, 1132, 1135, Chân Lạp nhiều lần cho quân ra quấy phá Nghệ An, nhưng đều bị nhà Lý dẹp tan nên cuối cùng lại xin thần phục.
-Năm 1138, vào cuối Vận 9, vua Lý Anh Tông mới có 3 tuổi lên ngôi, nhưng nhờ có Tô Hiến Thành là một trung thần tài ba phò tá nên trong suốt thời gian cai trị của ngài (1138-1175), tức là từ cuối Vận 9 qua tới giữa Vận 2, đất nước vẫn tương đối được ổn định. Đến khi Tô Hiến Thành qua đời (1179), nhà Lý bước vào thời kỳ suy vong.
-Dưới thời vua Lý Cao Tông (1176-1210), từ giữa Vận 2 cho đến giai đoạn đầu của Vận 4, giặc giã nổi lên như ong. Trong triều đình từ vua tới quan đều bất tài, không đối phó nổi với tình thế. Năm 1208, Quách Bốc nổi loạn, rồi đem quân về đốt phá kinh thành khiến vua Cao Tông phải dẫn Thái tử Sam bỏ chạy. Sau phải nhờ Trần Lý đem quân về dẹp loạn mới lấy lại được kinh đô nhưng quyền bính lọt hết về tay họ Trần. Trong suốt thời gian còn lại của Vận 4 (1210-1223), vương quyền của nhà Lý mỗi lúc một suy yếu, tàn tạ. Để rồi vào năm 1225, Trần Thủ Độ diệt nhà Lý, đặt cháu là Trần Cảnh lên làm vua và lập ra nhà Trần.
-Bước vào Vận 5, khi nhà Trần được sáng lập thì cũng là lúc vượng khí bắt đầu đến với Thăng Long (Hà Nội), nên đây là lúc mà sức mạnh của đất nước được bộc phát trở lại. Ngay từ những ngày đầu, Trần Thủ Độ đã tiến hành nhiều cuộc canh tân, cải cách, diệt trừ nội loạn. Nhờ thế nên chẳng bao lâu, các nền chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội trên đất nước Việt đều được khôi phục và phát triển. Nhưng trong lúc đó, xứ Mông Cổ cũng đang nổi lên thành một thế lực đế quốc hùng mạnh bậc nhất trong lịch sử thế giới, đánh chiếm được hầu hết Á Châu rồi tràn sang đến tận vùng Đông Âu. Sau khi đã chiếm được phần lớn đất đai của Trung Hoa, Mông Cổ bắt đầu dòm ngó tới Việt Nam.
-Năm 1257, trong Vận 6, chúa Mông Cổ là Hốt Tất Liệt phái danh tướng Ngột Lương Hợp Thai đem quân đánh chiếm nước Đại Lý (thuộc tỉnh Vân Nam bây giờ) và sau đó tiến xuống để chiếm Việt Nam. Ngột Lương Hợp Thai tiến binh rất nhanh, chỉ trong 1 tháng đã diệt được nước Đại Lý, rồi thừa thắng tiến quân vào nước ta.
-Trước sức mạnh của quân địch, vua tôi nhà Trần phải bỏ Thăng Long rút về Hưng Yên, áp dụng chiến lược "tiêu thổ kháng chiến" để đối phó. Chẳng bao lâu sau, khi thấy quân Mông Cổ suy yếu vì không được tiếp tế lương thực đầy đủ nên nhà Trần mở cuộc tổng phản công, đánh bại quân địch ở Đông Bộ Đầu, khiến cho Ngột Lương Hợp Thai phải rút quân tháo chạy về Vân Nam.
-Sau chiến thắng này và cho đến hết năm 1283, tức là từ giữa Vận 6 cho đến cuối Vận 7, nhà Trần phải trải qua cuộc đấu tranh đầy cam go và thử thách về ngoại giao với nhà Nguyên (Mông Cổ).
-Đầu năm 1285, thuộc Vận 8, Hốt Tất Liệt sai thái tử Thoát Hoan đem 50 vạn quân sang đánh nước ta lần thứ hai. Đây chính là lúc vận khí của Hà Nội đang trong giai đoạn cực thịnh, nên mặc dù quân Mông Cổ tinh nhuệ và đông đảo, nhưng chỉ sau 5 tháng giao tranh, bọn chúng đã bắt đầu nao núng. Trước tình hình đó, quân ta phản công, đại thắng quân địch trong các trận Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp, giết Lý Hằng, chém Toa Đô, còn Thoát Hoan phải chui vào ống đồng trốn, sau đó chạy về Tàu.
-Cũng trong Vận 8, vào cuối năm 1287, quá căm tức vì cuộc thất trận này, Hốt Tất Liệt lại sai Thoát Hoan đem 30 vạn quân sang đánh nước ta lần thứ ba. Nhưng lần này thì quân địch còn bị thảm bại nhanh chóng hơn vì sau khi đoàn thuyền chở quân lương của chúng bị phá tan ở Vân Đồn, Thoát Hoan đành phải chia quân theo đường thủy và đường bộ rút lui. Đạo thủy quân của địch bị quân ta chận đánh tan tành trên sông Bạch Đằng, những danh tướng như Ô-mã-Nhi, Phàn Tiếp đều bị bắt sống. Còn đạo quân dưới sự chỉ huy của Thoát Hoan theo đường bộ rút về cũng bị chận đánh kịch liệt, các đại tướng như A-bát-Xích, Trương Ngọc đều bị tử trận, Thoát Hoan phải vất vả mới trốn thoát qua được ải Nam Quan.
Xét về 2 cuộc đại thắng quân Mông Cổ của nhà Trần sau này đều xảy ra trong Vận 8, giữa lúc vận khí của Hà Nội đang đi đến giai đoạn cực thịnh nhờ linh khí của những dãy núi dài hàng ngàn dậm ở phía Đông Bắc hướng tới vô cùng mãnh liệt. Bởi thế nên chẳng những tinh thần quật cường, bất khuất của cả dân tộc ta lúc đó đang bùng lên cao độ mà những anh hùng tài ba lỗi lạc cũng xuất hiện rất nhiều. Từ những vị vua như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông cho đến những danh tướng như Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão... và đặc biệt là vị đại anh hùng dân tộc Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Chính vì thế nên dù đế quốc Mông Cổ có hùng mạnh đến đâu, quân của chúng có đông đảo, thiện chiến và tinh nhuệ tới mức nào đi nữa, khi bước đến Việt Nam cũng không thể tránh được sự thảm bại.
-Sau 2 cuộc đại thắng này, nhà Trần hưởng cảnh thanh bình, thịnh vượng được hơn 40 năm (1288-1233), tức là từ những năm còn lại của Vận 8 (16 năm) qua hết Vận 9 vào đến giữa Vận 1.
-Năm 1307, đầu Vận 9, Chiêm Thành đem quân sang quấy rối nước ta, nhưng bị nhà Trần đánh cho đại bại, Chiêm Vương Chế Chí bị bắt đem về giam ở Hà Nội.
-Năm 1334, vào giữa Vận 1, giặc Lào bắt đầu kéo sang phá phách. Mặc dù bị đánh bại, nhưng sau đó chúng vẫn tiếp tục trở lại cướp phá thường xuyên, khiến cho vua tôi nhà Trần phải vất vả lo toan đánh dẹp và phòng thủ biên giới.
-Kể từ đời vua Trần Dụ Tông (lên ngôi năm 1341, tức cuối Vận 1) thì nhà Trần bắt đầu suy yếu vì nhà vua chỉ biết vui chơi, giữa lúc nhân dân đói khổ, lầm than. Năm 1353, thuộc Vận 2, thấy nước Chiêm có nội chiến, vua Dụ Tông bèn đem quân sang can thiệp nhưng bị quân Chiêm đánh bại.
-Năm 1367, đầu Vận 3, nhà Trần lại cử đại quân vào đánh Chiêm Thành nhưng cũng bị đại bại như lần trước, chủ tướng của quân ta bị địch bắt sống.
-Năm 1377, cũng trong Vận 3, vua Trần Duệ Tông và Hồ Quý Ly huy động 12 vạn quân thủy bộ vào đánh Chiêm Thành. Nhưng khi tiến tới Đồ Bàn thì bị vua Chiêm là Chế Bồng Nga đánh tan, vua Trần bị tử trận, còn Hồ Quý Ly phải tháo chạy trở về. Thắng trận này, Chế Bồng Nga liên tiếp 3 lần đem quân ra đánh chiếm Thăng Long, cướp phá kinh thành rồi trở về.
-Năm 1389, đầu Vận 4, trong lúc Chế Bồng Nga đang đem quân sang đánh nước ta lần thứ 4 thì có nhà sư tên Phạm Sư Ôn lại nổi loạn, khiến triều đình nhà Trần vô cùng bối rối. May nhờ Chế Bồng Nga bị trúng đạn tử trận, quân Chiêm mới lui binh, loạn Phạm Sư Ôn cũng được dẹp yên. Đến lúc này, nhà Trần đã quá suy yếu, quyền hành lọt hết vào tay Hồ Quý Ly. Họ Hồ mỗi ngày một tạo dựng thêm vây cánh khắp triều đình, để rồi đến năm 1400 (cuối Vận 4) thì diệt nhà Trần, lên ngôi và lập ra nhà Hồ.
Xét về những cuộc thất bại của nhà Trần dưới tay quân Chiêm đều xảy ra vào khoảng từ giữa Vận 2 đến đầu Vận 4, là những giai đoạn mà vận khí của Hà Nội rất suy yếu. Bởi thế nên mặc dù nước ta rộng lớn hơn, tiềm lực về kinh tế lẫn quân sự đều hùng hậu hơn Chiêm quốc, vậy mà vẫn bị họ đánh cho khốn đốn, khiến vua tôi nhà Trần nhiều phen phải bỏ cả kinh đô mà chạy.
Đúng ra trong giai đoạn đó, nhà Trần chỉ nên án binh bất động, vì khi vận khí của kinh đô đã quá suy yếu thì không thể chiến thắng. Ngay cả đến việc diệt trừ nội loạn như cuối đời nhà Lý (cũng trong các Vận 3,4) mà còn chưa làm nổi thì làm sao có thể chiến thắng được các quốc gia thù địch ở bên ngoài. Tuy nhiên, trong các Vận 3 và 4, sát khí của biển Đông quá mạnh, nên dù nhà Trần có hòa hoãn với các nước lân cận thì cũng bị những cuộc nổi loạn trong nước làm cho điêu đứng để rồi đi đến chỗ bị tiêu diệt
Khi Hồ Quý Ly lên ngôi, việc đầu tiên của ông là cho dời thủ đô về Tây Đô ở Thanh Hóa, rồi cho tiến hành nhiều cải cách táo bạo về chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội và quân sự.
-Vào năm 1407, đầu Vận 5, khi nhà Minh mượn tiếng "phù Trần diệt Hồ" đem quân sang xâm lăng nước ta thì nhà Hồ bị tan rã và sụp đổ nhanh chóng. Một lần nữa, dân tộc ta lại nằm dưới ách thống trị của phương Bắc.
Nếu xét về phương diện Phong thủy và vận khí thì sự sụp đổ của nhà Hồ là do 2 nguyên nhân chính:
*Thứ nhất là khi Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, vận khí của thủ đô Thăng Long đang ở trong giai đoạn tàn tạ, suy yếu đến tột độ (Vận 4). Nên dù ông có cố công canh tân, cải cách thế nào đi nữa, nước yếu vẫn hoàn yếu, mà lòng người dân lại càng không phục.
*Thứ hai là việc ông lập Tây Đô (thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa bây giờ) làm thủ đô mới. Ðây là một vùng đất chật hẹp, lại bị long mạch của dãy Hoàng Liên Sơn tiến tới đâm sát vào. Đối với Phong thủy, địa thế như vậy không được coi là có Long (núi) chầu phục, mà chính là thế bị Long tiến tới bức bách, áp chế, khiến cho vượng khí bị thất tán, còn sát khí thì tràn ngập cả kinh đô. Bởi thế nên ngay từ khi lên ngôi, Hồ Quý Ly đã gặp phải những áp lực nặng nề từ trong và ngoài nước, để rồi đến khi quân Minh sang đánh nước ta thì nhà Hồ liền bị sụp đổ nhanh chóng.
Mặt khác, vào lúc đó, vận khí của Bắc Kinh đang ở trong giai đoạn cực kỳ hưng vượng (thành Bắc Kinh chủ phát vào các Vận 5, 6, và 7). Do đó, nếu đem vận khí của Tây Đô đối chọi với vận khí của Bắc Kinh lúc đó thì làm sao nhà Hồ không lãnh lấy cái hậu quả diệt vong, mất nước? Nếu như Hồ Quý Ly không dời đô, tuy ông sẽ gặp nhiều khó khăn trong những năm đầu, nhưng khi bước vào Vận 5 (1404) vượng khí sẽ trở lại với Thăng Long. Lúc đó, sức mạnh và tinh thần quật khởi của dân tộc lại trào dâng mạnh mẽ thì nhà Minh làm sao đánh chiếm và đô hộ nước ta ngót 20 năm được?
Nhưng cũng may cho dân tộc ta, khi quân Minh thiết lập nền đô hộ, chúng lại lấy Thăng Long (lúc đó đã đổi tên là Đông Đô) làm trung tâm điều hành việc cai trị, trực tiếp nhận lệnh điều khiển từ Bắc Kinh. Nhưng chúng không biết rằng trong các Vận 5, 6, 8, nếu là một trung tâm quyền lực chính trị thì Thăng Long sẽ không bao giờ là chư hầu của bất cứ một nước nào trên thế giới. Do đó những phong trào kháng chiến bùng nổ khắp nơi, cho đến khi Lê Lợi tập hợp được anh hùng hào kiệt, phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn thì nền độ hộ của quân Minh đã bước vào thời kỳ tàn cuộc.
-Vào năm 1426, đầu Vận 6, nhà Minh sai Vương Thông đem 5 vạn quân sang nước ta để đối phó với phong trào kháng chiến của Lê Lợi nhưng đạo quân này bị ta đánh tan ở Tuy Động. Năm sau, cũng trong Vận 6, nhà Minh lại phái Liễu Thăng và Mộc Thạnh đem 15 vạn quân sang nước ta hòng cứu vãn tình thế. Nhưng khi 10 vạn quân của Liễu Thăng bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn trong các trận đánh Chi Lăng, Tốt Động, Chúc Động thì nhà Minh không còn cách gì khác hơn là rút hết quân về nước và thừa nhận nền độc lập của dân tộc Việt.
Đánh đuổi được quân Minh ra khỏi bờ cõi, Lê Lợi lên ngôi lấy hiệu là Thái Tổ và lập ra nhà Lê, nhưng Ngài chỉ ở ngôi được 6 năm (1428-1433) thì băng hà. Con Ngài lên thay lấy hiệu là Thái Tông (1434-1442). Dưới thời vua Thái Tổ và Thái Tông, có nhiều vụ giết hại những công thần danh tiếng như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Lê Sát, Nguyễn Trãi... xảy ra. Đó chẳng qua là vì trong suốt Vận 6, nước ta thường bị đe dọa bởi những cuộc chiến tranh lớn hay những vụ khủng hoảng chính trị trầm trọng. Nhưng sau những trận đại thắng quân Minh trước đây, không còn một nước nào trong khu vực dám xâm phạm bờ cõi nước ta nữa. Do đó mới xảy ra những vụ giết hại công thần kể trên. Sau thời vua Lê thái Tông, nước ta tương đối được ổn định trong suốt 16 năm.
-Đến năm 1459, trong Vận 7, hoàng thân Nghi Dân đem quân về giết vua đoạt lấy ngôi, nhưng chỉ không đầy một năm sau thì lại bị các quan đại thần phế đi, rồi lập em là Gia Vương Tư Thành lên ngôi, lấy hiệu là Lê Thánh Tông.
-Dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497, tức là từ cuối Vận 7 qua hết Vận 8 cho tới gần cuối Vận 9), nước ta trở thành một cường quốc hùng mạnh bậc nhất trong vùng Đông Nam Á. Ở trong nước, nhà vua cho tiến hành nhiều cải cách từ chính trị, kinh tế đến luật lệ, thuế khóa... khiến đời sống người dân được yên ổn, sung túc. Ở ngoại biên, vua Lê Thánh Tông huy động những cuộc viễn chinh quy mô:
*Năm 1470, Ngài đem 26 vạn quân đi đánh và chiếm đất Chiêm Thành.
*Năm 1479, Ngài đem 18 vạn quân sang dẹp yên xứ Lão Qua.
*Năm 1480, lại đem 30 vạn quân xuống diệt xứ Bồn Mang. Thấy nước ta khống chế các nước lân bang nơi phía Nam, Minh triều bực tức nhưng chẳng làm gì được. Vì trong Vận 8, nguyên khí của thành Bắc Kinh đã đến thời kỳ suy yếu, không thể nào đối chọi nổi với cái hùng khí của Thăng Long lúc ấy.
-Sau khi vua Lê Thánh Tông băng hà, dân tộc ta vẫn tiếp tục sống trong cảnh thái bình thịnh trị dưới thời vua Lê Hiến Tông (1497-1504, tức là từ những năm cuối của Vận 9 sang đến đầu Vận 1). Nhưng kể từ đó trở đi, nhà Lê bắt đầu suy yếu với những ông vua xa xỉ, độc ác như Lê Uy Mục (1505-1509), Lê Tương Dực (1510-1516), khiến cho trăm họ đói khổ, giặc giã nổi lên. Lợi dụng tình thế rối ren đó, một võ tướng tên Mạc Đăng Dung bắt đầu gây dựng thế lực, diệt trừ các cuộc nổi loạn và những phe cánh đối lập. Khi đã thâu tóm trọn quyền bính trong tay, Mạc Đăng Dung cho người giết vua Lê Cung Hoàng rồi tự xưng vương và lập ra nhà Mạc vào năm 1527, lúc đó đang là đầu Vận 2. Nhưng chẳng được bao lâu thì con cháu nhà Lê, được sự phò tá của 2 họ Trịnh và Nguyễn, lại bắt đầu nổi lên ở Nghệ An để tạo thành thế Nam-Bắc triều.
-Trong suốt thời gian từ năm 1540 cho đến năm 1583, tức là từ cuối Vận 2 cho đến hết Vận 4, cả 2 bên đều mở rất nhiều cuộc tấn công quyết liệt, nhưng không bên nào dành được thắng lợi trọn vẹn. Phải đến năm 1591 (đầu Vận 5), Trịnh Tùng kéo đại quân ra Bắc, chiếm được thành Thăng Long, nhưng lại cho san thành bình địa rồi rút về. Năm sau, Trịnh Tùng lại đem quân ra Bắc lần nữa mới thực sự diệt được nhà Mạc và bình định đất Bắc.
Nếu xét tới sự thất bại của nhà Mạc thì lý do không ngoài việc Mạc Đăng Dung đã vội vã cướp ngôi nhà Lê quá sớm. Thật vậy, lúc đó đang là đầu Vận 2, nguyên khí nước ta đang dần dần bị suy yếu, nên dù ông có cố công gắng sức trong việc cai trị, nhưng tình thế mỗi lúc một trở nên đen tối. Trong các Vận 3, 4, nhà Mạc mỗi lúc một tàn tạ, suy nhược, nên khi bước vào Vận 5 thì bị tiêu diệt. Bởi vì lúc đó vượng khí đã bắt đầu trở về với Thăng Long, nên những chế độ mục nát, suy tàn bị quét sạch để nhường bước cho những thế lực chính trị mới, có đầy đủ khả năng và nghị lực để đối phó với tình thế.
Tuy nhiên, khi Trịnh Tùng chiếm được Thăng Long, lại cho quân phá tan thành bình địa, khiến cho vượng khí bị thất tán, làm suy giảm rất nhiều khí lực của kinh đô. Bởi thế nên về sau, họ Trịnh chẳng những phải hao tổn rất nhiều thời gian và công sức mới trừ hết được những dư đảng của nhà Mạc, mà còn không khuất phục được họ Nguyễn ở phương Nam. Ngay cả trong các Vận 8 (1644-1663) và Vận 9 (1664-1683) là những giai đoạn tốt đẹp nhất của Thăng Long, họ Trịnh vẫn không thống nhất được đất nước, khiến cho tình trạng Nam Bắc phân tranh kéo dài ngót 100 năm.
Giữa lúc 2 phe Trịnh - Mạc đang giao tranh quyết liệt ở ngoài Bắc, họ Nguyễn lợi dụng cơ hội đem quân vào Nam gây dựng thế lực ở Thuận Hóa. Đến khi nhà Mạc bị diệt thì họ Nguyễn đã bắt đầu đủ mạnh để đối phó với họ Trịnh. Lúc này, vua Lê chỉ là bù nhìn, mọi quyền hành đều lọt vào trong tay chúa Trịnh (ngoài Bắc) và chúa Nguyễn (trong Nam). Suốt thời gian từ năm 1627 đến năm 1672 (tức là từ đầu Vận 7 cho đến giữa Vận 9), hai bên 7 lần đại chiến tại khu vực Hà Tĩnh - Quảng bình. Vì bất phân thắng bại, nên đành lấy sông Gianh làm ranh giới chia đôi đất nước.
Mặc dù không thống nhất đất nước, nhưng trong thời gian đầu, các chúa Trịnh đều là những nhà lãnh đạo có tài, biết chăm lo việc nước nên đời sống của người dân cũng được yên lành, sung túc. Chỉ đến đời chúa Trịnh Giang (1729 - 1740 tức là bắt đầu từ Vận 3 trở đi) thì nền cai trị của nhà Trịnh đã bắt đầu lung lay. Dưới chế độ thuế khóa, phu dịch quá nặng nề của triều đình, người dân vô cùng đói khổ, lầm than, dẫn đến nhiều cuộc nổi loạn liên tiếp trong suốt 30 năm (1739-1769), khiến cho triều đình phải vất vả mới dẹp yên.
-Đến đời chúa Trịnh Sâm (1767-1782, trong Vận 5), do cũng có năng lực, lại được những đại thần có tài như Bùi Thế Đạt, Hoàng Ngũ Phúc, Lê Quý Đôn... phò tá nên chẳng những dẹp yên được các cuộc nổi loạn, mà còn bắt đầu bành trướng thế lực của họ Trịnh xuống phương Nam. Nhưng khi ông qua đời, con là Trịnh Khải lên thay, bất tài, hèn yếu, không làm chủ được tình thế, để cho kiêu binh lộng hành, khiến cho miền Bắc trở nên rối loạn. Giữa lúc đó, nước Trung Hoa ngày càng hùng mạnh dưới sự lãnh đạo của vua Càn Long, lại chủ trương xâm chiến các nước láng giềng để mở rộng cương thổ. Trước mối đe dọa nghiêm trọng đó, nhà Trịnh bắt buộc phải cáo chung để mở lối cho sự xuất hiện của một vị đại anh hùng mới của dân tộc Việt là vua Quang Trung Nguyễn Huệ.
-Còn về phần các chúa Nguyễn ở trong Nam thì mặc dù hùng cứ một phương, nhưng trên danh nghĩa vẫn là tôi thần của vua Lê, không lập nước hoặc kinh đô riêng nên vẫn phụ thuộc vào vận khí của Thăng Long. Do đó, trong những giai đoạn đầu, các chúa Nguyễn cũng rất tài giỏi, biết cách an dân, trị nước, đồng thời tiếp tục mở rộng lãnh thổ nước ta cho đến tận Hà Tiên. Sau này, dưới thời các chúa Nguyễn Phúc Trú (1725-1738) và Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) tức là trong các Vận 3 và 4, triều đình trong Nam đã bắt đầu suy yếu, những cuộc Nam tiến hầu như đã bị đình trệ hẳn.
-Kể từ năm 1765 tức là đầu Vận 5, triều đình của chúa Nguyễn bị mục nát vì sự lộng hành của quyền thần Trương Phúc Loan, khiến cho muôn dân đói khổ. Trước tình hình đó, 3 anh em nhà Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đứng lên phát động cuộc khởi nghĩa vào năm 1772 (giữa Vận 5).
Chỉ trong một thời gian ngắn, anh em Tây Sơn đã chiếm đươc trọn vẹn đất đai của chúa Nguyễn, nên năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng làm hoàng đế, đóng đô ở Quy Nhơn (thành Đồ Bàn cũ) và lập ra nhà Tây Sơn.
Tại đất Gia Định, khi anh em Tây Sơn vừa rút đi, một tôn thất nhà Nguyễn là Nguyễn Ánh lại trở về mộ binh chống lại. Trong hai năm 1782, 1783, Nguyễn Ánh bị Nguyễn Huệ đánh bại liên tiếp nên phải chạy sang Thái Lan cầu cứu.
-Năm 1784, đầu Vận 6, Thái Lan đem 2 vạn quân và 300 chiến thuyền sang xâm chiếm nước ta, nhưng vừa tiến tới Mỹ Tho thì bị Nguyễn Huệ đánh tan trên sông Rạch Gầm - Xoài Mút, khiến cho Nguyễn Ánh và đám tàn quân phải tháo chạy về đất Thái.
Bình định được trong Nam, Nguyễn Huệ liền nghĩ đến chuyện Bắc phạt. Vào giữa năm 1786, ông đem quân ra đánh Thuận Hóa, rồi tiến ra Thăng Long như vũ bão. Chỉ trong một tháng ông đã chiếm được kinh đô của đất Bắc, diệt chúa Trịnh, trao trả quyền hành cho vua Lê rồi trở về Nam. Nhưng vua Lê bất tài, không điều hành nổi chính sự, nên các lộng thần lại nổi lên, tác oai tác quái, khiến cho Nguyễn Huệ phải ra Bắc lần nữa để diệt trừ những phần tử sâu dân, mọt nước, thiết lập chính quyền mới rồi lại trở về Nam.
Trong khi đó, vì bị loại ra khỏi nền chính sự Việt Nam, vua Lê uất hận bèn chạy sang Tàu cầu cứu nhà Thanh.
-Vào cuối năm 1788, cũng đang trong Vận 6, vua Càn Long liền sai Tôn sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang chiếm nước ta. Nhưng khi chúng vừa dừng lại để ăn Tết thì từ Phú Xuân, Nguyễn Huệ lập tức lên ngôi, lấy hiệu là Quang Trung kéo 10 vạn binh ra Bắc. Bằng một chiến dịch tốc chiến tốc thắng có một không hai trong lịch sử dân tộc Việt và của cả thế giới, chỉ trong vòng 5 ngày vua Quang Trung đã đập tan một lực lượng quân sự tinh nhuệ và đông đảo hơn mình gấp bội, với những chiến thắng Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đa. Những đại tướng nhà Thanh như Hứa Thế Hanh, Thượng Duy Thăng, Sầm Nghi Đống phải bỏ mạng, còn Tôn Sĩ Nghị một mình một ngựa vượt qua ải Nam Quan trốn về nước.
Tiếc thay, sau chiến thắng oanh liệt này, vua Quang Trung lại không đóng đô ở Thăng Long đề duy trì và mở mang sự nghiệp (vì lúc đó đang trong Vận 6, nên vượng khí ở Thăng Long đang trào dâng mãnh liệt). Trái lại, Ngài vẫn tiếp tục dùng Phú Xuân làm kinh đô, mà không biết rằng trong Vận 6, thành phố này sẽ gặp nhiều tai họa. Bởi thế cho nên sau khi Ngài qua đời (1792), Nguyễn Ánh ở đất Gia Định dần dần khôi phục lực lượng đem quân ra chiếm Phú Xuân (1801), diệt nhà Tây Sơn (1802), rồi lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Gia Long và lập ra nhà Nguyễn. Kể từ đây, Phú Xuân trở thành thủ đô của đất nước, còn Thăng Long (sau này đổi thành Hà Nội) chỉ còn là một thành phố lớn trên đất Bắc mà thôi.
Trải qua các đời vua triều Nguyễn, đất nước ta mỗi ngày một suy yếu, dẫn tới cuộc xâm lăng và đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp. Năm 1945 khi vua Bảo Đại thoái vị, Hồ chí Minh cướp chính quyền, tuyên bố Việt Nam độc lập và thành lập chính phủ ở Hà Nội thì lúc đó đã bước vào Vận 5.
Năm 1946, Pháp đem quân trở lại Việt Nam, định tái lập chế độ thuộc địa một lần nữa. Nhưng lúc đó đang trong Vận 5, tinh thần quật khởi của dân tộc ta lại trào dâng mạnh mẽ, nên sau 9 năm chiến tranh khốc liệt, thực dân Pháp bị đại bại ở Ðiện biên Phủ, buộc lòng phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Vào lúc này, do sự phân rẽ về ý thức hệ giữa 2 khối Tự do và Cộng sản, nước ta bị chia cắt làm 2 miền:
*Miền Nam theo chế độ Tự do, dưới sự lãnh đạo của Ngô đình Diệm, đóng đô tại Sài Gòn.
*Miền Bắc theo chế độ Cộng sản, dưới sự lãnh đạo của Hồ chí Minh, đóng đô ở Hà Nội (năm 1954, trong Vận 5).
Vào lúc xảy ra sự phân chia đất nước, Sài Gòn đang nằm trong một giai đoạn xấu và địa thế bất lợi, nên tuy đời sống của người dân miền Nam được tự do, sung túc hơn miền Bắc, chính phủ miền Nam vẫn gặp phải rất nhiều khó khăn, bị khủng hoảng chính trị và tôn giáo liên tục. Trong khi đó, mặc dù đời sống của người dân miền Bắc bị nghèo đói dưới chế độ độc tài Cộng sản, thế lực chính trị và quân sự của Hà Nội ngày càng đè nặng lên trên chính quyền miền Nam.
-Bước sang Vận 6 (1964-1983), khí thế của Hà Nội càng bùng lên mãnh liệt. Nên mặc dù Sài Gòn được Hoa Kỳ và đồng minh trợ chiến, đem máy bay oanh tạc miền Bắc trong nhiều năm, nhưng vẫn không đánh bại nổi Hà Nội. Cuối cùng, Hoa kỳ quá chán nản đành rút quân ra khỏi Việt Nam, đến năm 1975 (cũng trong Vận 6) thì Sài Gòn bị sụp đổ trước cuộc tấn công của quân đội miền Bắc.
Sau cuộc chiến tranh này, khí thế của Hà Nội vẫn còn rất mạnh, nên chẳng những khống chế cả 2 nước Lào và Cam Bốt, mà còn làm cho mọi quốc gia trong vùng Đông Nam Á khiếp sợ. Khi Cộng sản Cam Bốt muốn liên minh với Trung Cộng để tách rời ra khỏi vòng kiểm soát của Hà Nội thì liền bị Hà Nội đem quân đánh tan chỉ trong vòng 2 tuần lễ. Thấy chư hầu của mình bị Việt cộng ngang nhiên đè bẹp, Trung Cộng tức giận đem hơn 200,000 quân sang đánh miền Bắc vào năm 1979 (vẫn trong Vận 6) nhưng bị đẩy lui.
-Vận 7 Hạ Nguyên (1984-2003), nếu tính theo vận khí của Hà Nội thì tuy nước ta không phải là quốc gia giàu mạnh nhất trong vùng Đông Nam Á, nhưng cũng không đến nỗi quá nghèo nàn, lạc hậu như bây giờ. Đó là vì vào những năm đầu của thập niên 80, Cộng sản Việt Nam cho thiết lập nhiều đập thủy điện lớn trên những con sông Đà, sông Mã. Trong Vận 7, những con sông này đã đem sát khí đến cho Hà Nội, giờ đây lại còn có những đập thủy điện hoạt động ngày đêm, khiến cho sát khí càng bốc lên dữ dội.
Bởi thế nên trong thời gian gần đây, Hà Nội bị khủng hoảng chính trị liên miên, hết Nguyễn Văn Linh tới Đỗ Mười, đến Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh... Nhưng càng thay đổi, giới lãnh đạo ở Hà Nội lại càng tỏ ra bất tài, không tìm nổi một hướng đi nhất định cho dân tộc. Giữa lúc đó, tệ nạn tham nhũng lan tràn khắp nơi, trong khi người dân vẫn tiếp tục đói khổ, các giới công, nông, trí thức... đều cảm thấy tương lai đất nước quá mù mịt.
Nhưng đối với bộ môn Phong thủy, tương lai lại rất tươi sáng cho dân tộc Việt Nam, bởi vì đã tới Vận 8. Đây chính là lúc mà đất nước ta trở nên giàu có và hùng mạnh. Nếu những người Cộng sản không sớm biết thay đổi, cố gắng chăm lo cho nước giàu dân mạnh mà chỉ lo vơ vét, ăn chơi hoang đàng xa xỉ như hiện nay, thì họ cũng sẽ bị quét sạch đi như những triều đại phong kiến trước đây trong buổi suy tàn.
Tóm lại, vận khí của Hà Nội là trung bình trong Vận 1, suy vi trong Vận 2, tàn tạ trong các Vận 3, 4, bắt đầu phục hưng trong Vận 5, kiêu dũng trong Vận 6, bình thường trong Vận 7, cực thịnh vào Vận 8 và 9. Vận 1, 2, 7 thường có những cuộc chiến tranh nhỏ hoặc những cuộc cướp ngôi, đảo chính. Vận 3, 4 thường có nhiều giặc giã, trong khi giai cấp thống trị thì vô tài, bất lực. Vận 5 bao giờ cũng có những cuộc chiến tranh tương đối lớn, nếu không có thù trong thì sẽ có giặc ngoài. Vận 6 thì bao giờ cũng là những cuộc chiến quy mô chống lại những cường quốc hùng mạnh trên thế giới. Vận 8 thường có những cuộc chiến tranh lớn (như thời Trần, Lê, Trịnh). Chỉ có Vận 9 là đất nước được thanh bình, ít có chiến tranh, giặc giã, nhưng hùng khí cũng như sự phát triển đều không thể bằng Vận 8.
Một điểm nữa về địa thế Phong thủy của Hà Nội là tuy nằm trong thế "núi, sông chầu phục" nhưng vì nước sông Hồng khi đi ngang qua Hà Nội chảy rất mạnh, chứ không êm đềm, uốn lượn. Vì lý do này nên những nhân vật xuất hiện vào đúng Vận 5 như Trần Thủ Độ, Hồ chí Minh... rất độc ác. Những anh hùng xuất hiện ở các Vận 6, 8 mới tránh được sát khí của sông Hồng để được nhân ái, hiền từ hơn. Ngoài ra, cũng vì lý do này mà nước Việt Nam từ xưa đến nay không bao giờ được giàu có như các cường quốc khác. Gặp lúc thịnh vượng thì chỉ tương đối sung túc, đến lúc suy vi thì điêu tàn.
Theo thiển ý của Vô Chiêu, Việt Nam không thể nào thịnh vượng khi tại quảng trường Ba Đình còn trưng bày xác chết của Hồ Chí Minh. Chủ trương gian ác, trù ếm đất Việt qua xác ướp Hồ Chí Minh đặt tại Ba Đình của Trung Cộng cũng giống như lời nguyền của Mã Viện "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" ngày xưa. Phải thiêu hủy xác ướp Hồ Chí Minh thì dân tộc Việt mới phát cơ đứng đầu các nước Đông Nam Á.
Trong lần kỷ niệm 1000 năm Thăng Long tại Hà Nội vừa qua, 2 thùng (container) pháo bông phát nổ làm nhiều người chết và bị thương. Đây là điềm báo trước chế độ Cộng Sản suy tàn.
*
* *
Theo Tam Nguyên Cửu Vận thì Đảng Cộng Sản VN cướp chính quyền vào năm 1945, nằm trong vận 5 (1944-1963) thuộc hành Thổ. Đến nay là vận 8 (2004-2023) cũng thuộc hành Thổ (đang thịnh) thì hành Thổ của vận 5 đã hết thời khí nên suy sụp. Đảng Cộng Sản đang bị dân chúng chống đối, kinh tế ngày càng suy thoái, lụn bại và cuối cùng sẽ bị tan rã. Ngày tàn của chế độ Cộng Sản VN không còn bao lâu nữa, chỉ sớm hay muộn trong vài năm tới mà thôi!
Vô Chiêu
Con Dân Nước Việt là những người đặt Tổ Quốc lên bản vị tối cao, tối cao có nghĩa là trên tất cả mọi vật, kể cả tôn giáo, đảng phái, và cả chính bản thân mình.