THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 30.3.2009
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ kêu gọi Đồng bào các giới trong nước Bất tuân dân sự - Biểu tình tại gia suốt tháng 5 để yêu sách bãi bỏ khai thác quặng bô-xít Tây nguyên gây đại nạn sinh thái và an ninh quốc phòng
PARIS, ngày 30.3.2009 (PTTPGQT) - Sáng nay Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế “Lời Kêu gọi Một Tháng Biểu tình Tại gia” để phổ biến đến các cơ quan truyền thông, báo chí cùng đồng bào các giới mong được sự hưởng ứng trước nguy cơ đại nạn sinh thái và an ninh quốc phòng nơi yết hầu quân sự Tây nguyên.
Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện (Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo), Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ cất lên lời kêu gọi. Bởi vì theo nhận định của Hòa thượng, hiện nay “lãnh đạo Nước Nhà không là Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông, Lê Thái Tổ, mà là một chính quyền ly khai dân, lệ thuộc nước ngoài, từ ý thức hệ đến cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, làm đảo lộn xã hội và nhân văn Việt Nam”. Nên hy vọng cuối cùng của Hòa thượng là “CHỈ CÒN LẠI TIẾNG NÓI CỦA TOÀN DÂN MỚI CÓ CƠ CỨU VÃN”.
Hòa thượng kêu gọi tháng Tư này xin đồng bào các giới chuẩn bị lương thực để có thể thực hiện suốt tháng 5.2009 làm tháng “Bất tuân dân sự” biểu dương bằng cuộc “Biểu tình Tại gia” : “Nông dân không ra đồng, Công nhân không đến xưởng, Thương gia, Tiểu thương không đến chợ, Sinh viên, học sinh không đến trường”. Sống dưới chế độ độc tài toàn trị, mọi tự do cơ bản đều bị tiêu hủy, đặc biệt tự do ngôn luận, tự do biểu tình. Công an là thế lực đàn áp và bắt bớ Người Biểu tình. Cho nên đối sách là Biểu tình tại chỗ, trong nhà mình, thì cuộc bắt bớ không thể thực hiện.
Với người Việt hải ngoại, Hòa thượng kêu gọi “đồng bào các giới ở hải ngoại hưởng ứng bằng việc không về du lịch và không gửi tiền về Việt Nam trong suốt tháng Năm 2009, ngoại trừ những trường hợp riêng tư khẩn cấp hay bất khả”.
Với các cơ quan truyền thông, báo chí Hòa thượng kêu gọi xin “giúp đỡ chuyển vận Lời kêu gọi này của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến các giới đồng bào trong và ngoài nước”.
Lời kêu gọi trình bày chi tiết đầy đủ về đại nạn sinh thái gây ra do việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên. Nhất là “công nghệ lạc hậu khai thác quặng bô-xít chỉ có ở Trung quốc là công nghệ “ướt”, trong khi các quốc gia tiên tiến đã chuyển công nghệ “ướt” sang công nghệ “khô” trong việc thải bùn đỏ, là nguy cơ gây đại nạn sinh thái cho Tây nguyên, miền Nam Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long”. Điều trầm trọng hơn nữa, theo lời Hòa thượng, là “nguy cơ an ninh quốc phòng. Tây nguyên là vùng chiến lược, yết hầu quân sự cho việc phòng ngự Việt Nam trên ngã ba biên giới Cam Bốt – Lào – Việt Nam”.
Lời kêu gọi thống thiết của Hòa thượng Thích Quảng Độ là : “Trọng Thủy đã cưỡng bức Mị Nương trên dãy Trường Sơn. Còn ngoài kia trên biển Đông, Trung quốc cũng đang lấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa…”
Mục tiêu của Tháng 5 Bất tuân dân sự - Biểu tình Tại gia, nhắm đạt 3 mục tiêu :
“1. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam cấp tốc nộp hồ sơ xác nhận thềm lục địa của mình theo Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển cho Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) trước ngày quy định của LHQ, là ngày 13 tháng 5 năm 2009, để bảo vệ quyền lợi và lãnh hải tổ quốc.
“Nếu Đảng và Nhà nước vẫn làm ngơ trước quyền lợi của tổ quốc, thì xin các Cộng đồng Người Việt hải ngoại cấp tốc thành lập Ủy ban Bảo vệ Lãnh hải Việt Nam, thu tập hồ sơ, vận động quốc tế và can thiệp trực tiếp đến Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) để bảo vệ quê hương.
“2. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam công bố toàn bộ nội dung hai bản Hiệp ước Biên giới trên đất liền và trên biển ký kết giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1999 và 2000, kèm theo các bản đồ là bộ phận cấu thành không thể tách rời của Hiệp ước, để toàn dân được biết sự toàn vẹn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng.
“3. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam khẩn cấp triệu tập một Đại hội đại biểu toàn dân bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật cơ khí luyện kim, các chiến lược gia quân sự cùng đại biểu các thành phần dân tộc bất phân chính kiến, tôn giáo trong và ngoài nước để cùng nhau thống nhất ý kiến chận đứng việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên.
Chúng tôi xin đăng tải toàn văn Lời Kêu Gọi Một Tháng Biểu Tình Tại Gia như sau:
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN HÓA ĐẠO
Thanh Minh Thiền Viện, 90 Trần Huy Liệu, Phường 15, Quận Phú Nhuận, TP Saigon
--------------------------------------------------------------------------------------------------------
Phật lịch 2552 Số 03 /VHĐ/VT
LỜI KÊU GỌI
MỘT THÁNG BIỂU TÌNH TẠI GIA
để chống việc lấy Vàng dân tộc đổi Nhôm nước ngoài
Bất chấp những lời báo động hiểm nguy của các chuyên gia, trí thức về việc khai thác quặng bô-xit ở Tây nguyên, ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn một mực tiến hành việc lựa chọn nhà thầu Trung quốc vào Tây nguyên khi khẳng định : “Khai thác bô-xít Tây nguyên là chủ trương của Đảng nêu trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X”, nghĩa là từ năm 2006.
Đảng quyết định. Nhưng toàn dân thì sao ?
Toàn dân thông qua ý kiến của các giới chuyên gia, trí thức, học giả… đưa lên báo chí, truyền thông, Internet đều báo động rằng khai thác bô-xít sẽ hủy diệt mầu xanh rừng Tây nguyên, làm thay đổi thổ nhưỡng của vùng đất đỏ bazan, làm tăng thêm nguy cơ về hạn hán kéo dài, lũ ống, lũ quét sẽ xẩy ra nhiều hơn, đồng thời ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước ngọt để phát triển kinh tế cho các tỉnh vùng hạ lưu ở miền Nam Trung bộ, Đồng Nai, Bình Dương, thành phố Saigon. Từ nghìn xưa, mầu xanh rừng Tây nguyên bảo vệ cho việc tích trữ nước trong lòng đất, lọc không khí và điều hòa nhiệt độ toàn vùng. Phá hủy mầu xanh còn là phá hủy nghiêm trọng không những cảnh quan mà sắc thái văn hóa và quyền sống của hàng chục dân tộc ít người trên vùng cao.
Theo các báo cáo khoa học thì quặng bô-xít để sản xuất nhôm không là kim loại chiến lược. Giá trị kinh tế của nhôm không cao hơn việc trồng cây công nghiệp ở Tây nguyên. Bô-xít là tài nguyên khoáng sản có hạn, không tái sinh. Còn cây công nghiệp là nguồn tài nguyên vô hạn và có tái sinh. Ấy là chưa nói đến công nghệ lạc hậu khai thác quặng bô-xít chỉ có ở Trung quốc là công nghệ “ướt”, trong khi các quốc gia tiên tiến đã chuyển công nghệ “ướt” sang công nghệ “khô” trong việc thải bùn đỏ, là nguy cơ gây đại nạn sinh thái cho Tây nguyên, miền Nam Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long.
Bức thư ngỏ mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết từ năm 1980 Đảng và nhà nước đã đề nghị khối COMECON, tức khối kinh tế cộng sản Liên xô và Đông Âu, khai thác quặng bô-xít Tây nguyên. Nhưng theo thư ông Giáp thì “khối COMECON đã khuyến nghị Chính phủ ta không nên khai thác bô-xít trên Tây nguyên do những nguy cơ gây tác hại sinh thái lâu dài rất nghiêm trọng, không thể khắc phục được đối với dân cư tại chỗ mà còn cả dân cư và vùng đồng bằng Nam Trung bộ”
Vì tính chất nguy hại sinh thái và cư dân quanh vùng khai thác bô-xít mà Cục bảo vệ môi trường quốc gia Trung quốc đã đóng cửa 100 mỏ bô-xít trên lãnh thổ Trung quốc từ năm 2004 đến 2008. Tại Ấn độ năm 2004 đã có một phong trào quần chúng lớn rộng nổi dậy biểu tình chống việc khai thác bô-xít tại bang Orissa trên diện tích 1000 hecta làm nguy hại 60.000 cư dân.
Tại Việt Nam hiện nay, chỉ nói đến một cứ điểm Đắk Nông ở phía cực nam Tây nguyên hiện đang có 7 mỏ khai thác bô-xít, tất thấy ngay nguy cơ sa mạc hóa - “bùn đỏ hóa mầu xanh” trên 6000 quả đồi với hàng trăm con suối trên một diện tích 600.000 hecta, nơi cư ngụ 29 dân tộc ít người, chủ yếu là cư dân bản địa người M’Nông. Để khai thác 5,4 tỉ tấn quặng thô bô-xít ở Đắk Nông thì chất thải bùn đỏ sẽ phủ lấp hàng nghìn buôn làng : khi ta biết rằng để có 1 tấn nhôm cần khai thác 4 tấn quặng bô-xít và thải ra môi trường 3 tấn bùn đỏ !
Vấn nạn nêu trên nằm trong lĩnh vực môi trường và sinh thái cho cư dân Tây nguyên. Một vấn đề trầm trọng khủng khiếp khác là nguy cơ an ninh quốc phòng. Tây nguyên là vùng chiến lược, yết hầu quân sự cho việc phòng ngự Việt Nam trên ngã ba biên giới Cam Bốt – Lào – Việt Nam. Việc nhà thầu Trung quốc khai thác quặng bô-xít đã bắt đầu, những làng người Hoa vừa dựng lên ở Tây nguyên, khoảng năm, mười nghìn người Trung quốc sẽ tới : Trọng Thủy đã cưỡng bức Mị Nương trên dãy Trường Sơn. Còn ngoài kia trên biển Đông, Trung quốc cũng đang lấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa…
Nguy cơ mất nước bắt đầu.
Lần này không chỉ Bắc thuộc Một Nghìn Năm, mà là Ba Nghìn Năm hay lâu hơn nữa khi lãnh đạo Nước Nhà không là Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông, Lê Thái Tổ, mà là một chính quyền ly khai dân, lệ thuộc nước ngoài, từ ý thức hệ đến cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, làm đảo lộn xã hội và nhân văn Việt Nam.
CHỈ CÒN LẠI TIẾNG NÓI CỦA TOÀN DÂN MỚI CÓ CƠ CỨU VÃN. Trước là chận đứng việc lấy Vàng, tức dân tộc, đổi lấy Nhôm ngoại quốc. Sau là bảo vệ sự Vẹn toàn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng.
Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tôi kêu gọi người Việt trong ngoài nước hãy tỏ thái độ trước nguy cơ hủy hoại mầu xanh Tây nguyên và đời sống của người Việt cũng như hàng chục dân tộc ít người trong việc khai thác quặng bô-xít không thông qua nghiên cứu khoa học và kinh tế, mà chỉ vụ vào sự lệ thuộc Bắc phương.
Kính xin người Việt nước ngoài khẩn cấp báo động công luận thế giới về đại nạn sinh thái Tây nguyên, và nguy cơ nối giáo Bắc Kinh trấn đóng yết hầu chiến lược vùng ba biên giới.
Kính xin người Việt trong nước hãy tỏ thái độ bằng cuộc biểu dương BẤT TUÂN DÂN SỰ trong suốt tháng 5 kể từ ngày Lễ Lao động 1.5 sắp tới.
Sống dưới chế độ độc tài, công an trị, người dân đã mất quyền biểu tình công cộng nói lên ngưỡng vọng thiết tha suốt 54 năm tại miền Bắc và 34 năm qua tại miền Nam, thì nay hãy BIỂU TÌNH TẠI GIA như một thái độ Bất tuân dân sự : Nông dân không ra đồng, Công nhân không đến xưởng, Thương gia, Tiểu thương không đến chợ, Sinh viên, học sinh không đến trường. Chúng ta có một tháng Tư để chuẩn bị lương thực cho gia đình nhằm thực hiện tháng Năm BẤT TUÂN DÂN SỰ - BIỂU TÌNH TẠI GIA để đòi hỏi ba yêu sách sau đây :
1. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam cấp tốc nộp hồ sơ xác nhận thềm lục địa của mình theo Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển cho Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) trước ngày quy định của LHQ, là ngày 13 tháng 5 năm 2009, để bảo vệ quyền lợi và lãnh hải tổ quốc.
Nếu Đảng và Nhà nước vẫn làm ngơ trước quyền lợi của tổ quốc, thì xin các Cộng đồng Người Việt hải ngoại cấp tốc thành lập Ủy ban Bảo vệ Lãnh hải Việt Nam, thu tập hồ sơ, vận động quốc tế và can thiệp trực tiếp đến Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) để bảo vệ quê hương.
2. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam công bố toàn bộ nội dung hai bản Hiệp ước Biên giới trên đất liền và trên biển ký kết giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1999 và 2000, kèm theo các bản đồ là bộ phận cấu thành không thể tách rời của Hiệp ước, để toàn dân được biết sự toàn vẹn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng.
3. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam khẩn cấp triệu tập một Đại hội đại biểu toàn dân bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật cơ khí luyện kim, các chiến lược gia quân sự cùng đại biểu các thành phần dân tộc bất phân chính kiến, tôn giáo trong và ngoài nước để cùng nhau thống nhất ý kiến chận đứng việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên.
Tháng Năm BẤT TUÂN DÂN SỰ - BIỂU TÌNH TẠI GIA sẽ là thái độ dũng cảm nói lên mối ưu tư Bảo vệ sinh thái và Vẹn toàn lãnh thổ của toàn dân trong giai đoạn cấp cứu của lịch sử. Dân chủ là Tiếng Nói, một tiếng nói đối thoại và tranh luận khi quê hương nguy biến để tiến tới giải pháp cứu nguy dân tộc. Nay là cơ hội và thời điểm sinh tử để Tiếng Nói cất lên thông qua một tháng BIỀU TÌNH TẠI GIA.
Kính xin đồng bào các giới trong nước hưởng ứng THÁNG BIỂU TÌNH TẠI GIA trong suốt tháng 5.2009, và đồng bào các giới ở hải ngoại hưởng ứng bằng việc không về du lịch và không gửi tiền về Việt Nam trong suốt tháng Năm 2009, ngoại trừ những trường hợp riêng tư khẩn cấp hay bất khả.
Kính xin các cơ quan truyền thông, báo chí giúp đỡ chuyển vận Lời kêu gọi này của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến các giới đồng bào trong và ngoài nước.
Thanh Minh Thiền viện, Saigon ngày 29.3.2009
Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống
Kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo
(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ
31 March 2009
29 March 2009
Nước đến chân mới nhảy
những sự việc vừa diễn ra ở trong nước liên quan đến lãnh thổ và biển đảo cho thấy đảng CSVN đang lâm vào trạng huống lúng túng trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, nhưng mặt khác lại thiếu tích cực để đoàn kết toàn dân và hợp tác với người Việt Nam ở nước ngoài trong hoàn cảnh nước đến chân mới nhảy
Tại sao bây giờ mới xin người Việt ở nước ngoài tham gia bảo vệ chủ quyền ?
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa tung ra cuộc vận động dư luận về chủ quyền lãnh thổ và công khai bác bỏ kế hoạch giành chủ quyền vĩnh viễn của Trung Hoa tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhưng quyết định đưa ra sau 2 ngày hội nghị toàn quốc đã cho thấy đảng và nhà nước Cộng sản chưa thật sự coi vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là tối quan trọng và cần có sự tham gia thảo luận của những người đứng đầu trong đảng, chính phủ và nhân dân.
Bằng chứng do Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) phổ biến cho thấy chỉ có “các đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành trung ương, các tỉnh, thành phố và các cơ quan tuyên truyền, báo chí” tham dự hội nghị quan trọng này.
Theo thông tin của nhà nước thì mục đích của hội nghị tại Hải Phòng trong hai ngày 20-21/3, do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức, là để “tổng kết công tác tuyên truyền về biển, đảo; phân giới cắm mốc biên giới và thông tin đối ngoại năm 2008, triển khai nhiệm vụ năm 2009”.
TTXVN viết: “ Phát biểu chỉ đạo hội nghị, các đồng chí Phạm Gia Khiêm (Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao) và đồng chí Tô Huy Rứa (Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương) đã nêu bật những thành tựu quan trọng trong công tác tuyên truyền về biển, đảo, phân giới cắm mốc và thông tin đối ngoại, góp phần làm cho nhận thức của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân về vị trí, chiến lược của biển, đảo và biên giới, nâng cao ý thức bảo về chủ quyền dân tộc.
Tuyên truyền về biển, đảo; phân giới, cắm mốc và thông tin đối ngoại là 3 lĩnh vực có nội dung rất quan trọng đối với đất nước, luôn được Đảng và Nhà nước coi trọng, chỉ đạo sát sao. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền về biển, đảo, phân giới cắm mốc và thông tin đối ngoại vẫn còn một số hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu.
Đề cập về công tác tuyên truyền phân giới, cắm mốc, đồng chí Phạm Gia Khiêm và đồng chí Tô Huy Rứa nhấn mạnh: Trên toàn tuyến Việt Nam - Trung Quốc, lần đầu tiên trong lịch sử hai nước đã xác định chủ quyền biên giới rõ ràng trên đất liền với hệ thống mốc hiện đại, đặt cơ sở vững chắc cho việc xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài và hợp tác vĩnh viễn giữa hai nước, mở ra trang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Do vậy cần làm tốt công tác tuyên truyền để phát huy thành quả đã đạt được, phân tích, giải thích rõ những nội dung hoàn thành phân giới, cắm mốc cho đồng bào ta và bạn bè quốc tế nhằm tạo sự đồng thuận trong xã hội, sự tin tưởng của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, góp phần phản bác các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch”.
Một hội nghị có nội dung quan trọng như vấn để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ở vào giai đọan đang có những cuộc tranh chấp về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và vùng đặc quyền kinh tế ở Biển Đông lại chỉ quy tụ “các đại diện” cho “lãnh đạo” các bộ, ban, ngành trung ương, các tỉnh, thành phố và các cơ quan tuyên truyền, báo chí” tham dự ?
Vấn để đặt ra với đảng và nhà nước CSVN là những người “đại diện” này có thẩm quyền gì, ngoài nhiệm vụ đến nghe để “báo cáo” lại cho cấp chỉ huy của mình, và sau khi nghe báo cáo rồi họ có làm được việc gì không, hay nghe rồi để đó như đã xẩy ra bao nhiều lần trước đây?
Cũng thắc mắc là tại sao cho đến giờ này, sau khi đảng CSVN đã hoàn tất công tác cắm mốc biên giới với Tàu vào ngày 31/12/2008 rồi mới tuyên truyền cho dân biết ? Tại sao họ không hỏi ý kiến nhân dân, ít ra là qua các cuộc thảo luận công khai tại Quốc hội, để phân tích những điểm lợi và hại của “Hiệp Hiệp ước biên giới trên đất liền” như thế nào trước khi đặt bút ký kết năm 1999?
Bây giờ mọi chuyện đã xong, nhưng người Việt trong cũng như ngoài nước, vẫn chưa được đọc một chữ của Hiệp ước này, và nhà nước cũng chưa có Bản đồ để công bố cho dân coi thì có tuyên truyền cũng chỉ như chuyện “dắt anh mù đi sờ voi”. Nhà nước nói sao thì dân biết vậy là chuyện thừa thãi, nếu không muốn nói là đảng và nhà nước đã coi thường nhân dân, những người làm chủ đất nước.
Trong số những hành động giấu giếm của nhà nước về Hiệp ước 1999 còn có lệnh cấm không cho dân đi quan sát vùng biên giới Tàu-Việt, sau khi họ ngấm ngầm ký kết với Trung Hoa.
Nhưng dù sau này có phát giác ra những sai trái, thiệt thòi cho phía Việt Nam khi so sánh Hiệp ước với thực tế biên giới trên đất liền thì cũng không làm được gì vì mọi chuyện đã xong. Đảng và nhà nước CSVN có thi hành khẩu hiệu để cho “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trước khi ký kết với Trung Hoa đâu?
Vũ Dũng khoe
Mọi người chỉ biết, sau khi đã cắm xong mốc cuối cùng phân ranh giới lãnh thổ hai nước trên đất liền ngày 31-12-2008 thì Vũ Dũng, Thứ trưởng Ngoại giao, Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ với Trung Hoa đã hớn hở khoe trên báo điện tử của Đảng:
“Hai bên đã hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc, phân giới được khoảng 1400km đường biên giới và cắm xong 1971 cột mốc, trong đó có 400km đường biên giới đi theo sông suối biên giới. Đây là một hệ thống cột mốc hiện đại, được ghi nhận lại bằng một hệ thống tọa độ tiên tiến, các vị trí cột mốc chỉ sai số hàng cm và quản lý bằng phần mềm tiên tiến. Đây là hệ thống mốc giới hiện đại, hoàn chỉnh, được quản lý bằng những phương pháp kỹ thuật tiên tiến. Tôi tin rằng, nhân dân cả nước, đồng bào các dân tộc có thể hoàn toàn yên tâm về hệ thống mốc giới này.” (Báo điện tử Đảng CSVN, ngày 25/2/2009)
Trả lời câu hỏi: “Từ việc hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên đất liền, rút ra được những bài học gì cho việc đàm phán phân giới cắm mốc trên biển?”, Vũ Dũng đáp:
“ Giữa Việt Nam – Trung Quốc có 3 vấn đề lịch sử để lại. Thứ nhất là vấn đề biên giới trên bộ. Thứ hai là vấn đề biên giới trong vịnh Bắc Bộ và thứ 3 là vấn đề Biển Đông. Bằng việc kết thúc phân giới cắm mốc trên bộ, chúng ta đã giải quyết được 2 trong 3 vấn đề lịch sử để lại có liên quan đến biên giới lãnh thổ. Việc hoàn thành phân giới cắm mốc đã cho chúng ta một bài học là, đối với các tranh chấp do lịch sử để lại, nếu các bên cùng kiên trì đàm phán, nếu các bên cùng dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, tôn trọng lợi ích và quan tâm của nhau thì hoàn toàn có thể từng bước tìm ra một giải pháp cơ bản lâu dài, hai bên đều chấp nhận được.”
Phóng viên báo đảng hỏi tiếp: “Vậy thưa Thứ trưởng về quá trình đàm phán biên giới trên biển, sắp tới đây được hai bên thống nhất như thế nào?”, Vũ Dũng trả lời:
“Hiện nay hai bên có 3 diễn đàn có liên quan đến biển Đông. Thứ nhất là trưởng đoàn đàm phán chính phủ về biên giới lãnh thổ. Diễn đàn thứ hai là diễn đàn về đàm phán phân định và hợp tác cùng phát triển ở khu vực cửa Vịnh Bắc Bộ. Đến nay hai bên đã đàm phán được nhiều vòng và đã đạt được những thoả thuận mang tính nguyên tắc rất quan trọng đối với khu vực cửa vịnh Bắc Bộ. Diễn đàn thứ 3 là hai bên thảo luận về các vấn đề trên biển, bàn về các vấn đề ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, cụ thể là liên quan đến hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Hai bên cũng đã thoả thuận là sắp tới đây sẽ tăng nhịp độ đàm phán của các diễn đàn này. Tôi tin là hợp tác trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc sắp tới đây sẽ được mở rộng và tăng cường hơn nữa.”
Đó là lời tuyên bố lạc quan tếu, hời hợt và vô trách nhiệm vì “những thoả thuận mang tính nguyên tắc” với Trung Hoa, theo lời ông Dũng, chưa được công bố nhưng nếu căn cứ vào những hành động của Tàu Bắc Kinh trong khoảng thời gian từ cuối năm 2008 đến tháng 3/2009 trên Biển Đông thì rõ ràng là Tàu đã nuốt 16 chữ vàng: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và 4 tốt:“láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.”
Bằng chứng
Trước hết, Trung Hoa đang ra sức tăng cường các cuộc thăm dò khả năng dầu khí và hải sản trong khu vực được gọi là “Đặc quyền kinh tế”, do bản đồ họ tự vẽ ra từ năm 1947, chiếm 75 diện tích trên Biển Đông. Tàu định nhường 25% diện tích còn lại cho Việt Nam, Nam Dương, Brunei, Phi Luật Tân, Mã Lai Á là các Quốc gia đang tranh chấp chủ quyuền lãnh hải ở Biển Đông với Trung Hoa.
Khu vực 75% này, theo Bản đồ của Bắc Kinh, có hình “luỡi bò” mà các chuyên gia Biển Đông ở trong nước đã tiết lộ trong cuộc hội thảo lần đầu tiên tổ chức tại Hà Nội ngày 17-3-2009.
Có hai sự việc nổi bật nhất là báo chí Trung Hoa ngày 10 và 11/12/2008 đã đưa tin, ngày 10/12/2008, Cục Hải Dương Trung Quốc đã họp báo công bố chủ trương khuyến khích các đơn vị, cá nhân khai thác, sử dụng các đảo không có người ở, kể cả hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Báo Tàu Bắc Kinh nói: “ Việc khai thác đảo không có người ở có lợi cho việc bảo vệ chủ quyền biển của Trung Quốc”.
Sau đó, ngày 22/11/2008, Tập đoàn dầu khí Trung Quốc Cnooc Ltd công bố dự án dò dầu khí nước sâu tại Biển Đông. Dự án này có trị giá 200 tỉ nhân dân tệ, tương đương 29 tỉ đôla sẽ được thực hiện từ 2009 cùng với công ti mẹ của họ là tập đoàn Cnooc. Cnooc là tập đoàn dầu khí nhà nước của Trung Hoa.
Vào trung tuần tháng 3/2009, Trung Hoa đưa Tàu Ngư Chính 311 ra họat động trong khu vựa được gọi là “đặc quyền kinh tế” ở Biển Đông. Tàu này, theo báo chí Việt Nam, có trọng lượng 4.450 tấn, dài 135 mét, rộng 15,5 mét, là chiếc tàu lớn nhất trong hạm đội tàu tuần tra ngư trường, có thể đạt tốc độ tối đa 37 cây số một giờ.
Theo báo Tàu ở Bắc Kinh, chiếc tàu tuần tra trên sẽ làm nhiệm vụ tại nơi được gọi là vùng đặc quyền kinh tế trên biển của Trung Quốc tại lãnh hải tranh chấp quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Vũ Trang (Wu Zhuang), Cục trưởng Cục các vấn đề đánh cá và cảng cá ở Biển Đông nói: “Tàu tuần tra sẽ bảo vệ chủ quyền cũng như quyền và lợi ích trên biển của Trung Quốc ở Biển Nam Hoa (Biển Đông). Chúng tôi sẽ mở rộng đội tàu tuần tra trong 3 - 5 năm nữa".
Trước đó, ngày 8/3 còn xảy ra một vụ đụng độ trên biển đã xảy ra giữa tàu thăm dò của hải quân Mỹ và một số tàu của Trung Hoa. Tàu thăm dò USNS Impeccable của Mỹ họat động ở khu vực 75 hải lý phía nam đảo Hải Nam thì bị 5 chiếc Tàu đánh cá và thăm dò của Tàu đến khiêu khích. Trung Hoa nói tàu Impeccable đã vi phạm luật biển của Trung Quốc và quốc tế.
Như vậy, việc Hà Nội mở rộng tuyên truyền về biển đảo là để bảo vệ cho chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, quan trọng nhất là chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hay để “công nhận” những họat động của Tàu vi phạm chủ quyền lãnh hải của Việt Nam đang diễn ra ở Biển Đông?
Có một chi tiết quan trọng mà đảng CSVN muốn giấu dân là khi họ mở cuộc vận động tuyên truyền về Biển Đông thì họ lại không công bố công khai “Hiệp ước phân định vịnh Bắc Bộ 2000” nên không ai biết họ tuyên truyền cái gì và để làm gì!
Nếu bảo để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thì dân phải được biết đảng và nhà nước CSVN đã thoả hiệp với Tàu như thế nào ở vịnh Bắc Bộ chứ không phải cứ như cái trò “bịt mắt bắt dê” hay “nhắm mắt dắt nhau đi sờ voi”.
Đảng cần phải minh bạch chứ không phải chỉ cần dân gây áp lực với Tàu vào thời gian Việt Nam chuẩn bị nói chuyện với Tàu về Biển Đông trong năm nay (2009).
Cũng nên biết cuộc vận động dư luận về biển đảo của Việt Nam đã diễn ra sau khi Hà Nội bật đèn xanh cho việc tổ chức cuộc hội thảo do Học viện Ngoại giao tổ chức lần thứ nhất ngày 17-03-2009 với chủ đề “Tranh chấp chủ quyển tại Biển Đông: Lịch sử, Địa chính trị và Luật pháp quốc tế”.
Có trên 70 chuyên gia về Biển Đông và sử học tham dự và các bài phát biểu của họ đã chĩa mũi dùi vào Trung Hoa để lên án hành động bành trướng lãnh thổ bất hợp pháp của nước này tại Biển Đông, đặc biệt trong khu vực Hoàng Sa và Trường Sa.
Cũng lần đầu tiên, nhà nước CSVN đã để cho các Bài viết, hay phát biểu chống Tàu bịa đặt tài liệu để chiếm quyền kiểm sóat Biển Đông và vi phạm chủ quyền của Việt Nam được tự do đăng báo.
Đáng chú ý hơn cả là trong số các lời phát biểu, có một số học gỉa đã yêu cầu nhà nước phải kêu gọi sự tiếp tay của các học gỉa người Việt chuyên về lịch sử và Biển Đông đang sống ờ nước ngoài tiếp tay với trong nước để tranh thủ với Trung Hoa.
Nhưng liệu đảng CSVN có nghe lời khuyên này hay không và họ sẽ hành động ra sao thì việc đó chưa xẩy ra.
Dù thế nào chăng nữa thì những sự việc vừa diễn ra ở trong nước liên quan đến lãnh thổ và biển đảo cho thấy đảng CSVN đang lâm vào trạng huống lúng túng trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, nhưng mặt khác lại thiếu tích cực để đoàn kết toàn dân và hợp tác với người Việt Nam ở nước ngoài trong hoàn cảnh nước đến chân mới nhảy.
Phạm Trần
Tại sao bây giờ mới xin người Việt ở nước ngoài tham gia bảo vệ chủ quyền ?
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa tung ra cuộc vận động dư luận về chủ quyền lãnh thổ và công khai bác bỏ kế hoạch giành chủ quyền vĩnh viễn của Trung Hoa tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhưng quyết định đưa ra sau 2 ngày hội nghị toàn quốc đã cho thấy đảng và nhà nước Cộng sản chưa thật sự coi vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là tối quan trọng và cần có sự tham gia thảo luận của những người đứng đầu trong đảng, chính phủ và nhân dân.
Bằng chứng do Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) phổ biến cho thấy chỉ có “các đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành trung ương, các tỉnh, thành phố và các cơ quan tuyên truyền, báo chí” tham dự hội nghị quan trọng này.
Theo thông tin của nhà nước thì mục đích của hội nghị tại Hải Phòng trong hai ngày 20-21/3, do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức, là để “tổng kết công tác tuyên truyền về biển, đảo; phân giới cắm mốc biên giới và thông tin đối ngoại năm 2008, triển khai nhiệm vụ năm 2009”.
TTXVN viết: “ Phát biểu chỉ đạo hội nghị, các đồng chí Phạm Gia Khiêm (Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao) và đồng chí Tô Huy Rứa (Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương) đã nêu bật những thành tựu quan trọng trong công tác tuyên truyền về biển, đảo, phân giới cắm mốc và thông tin đối ngoại, góp phần làm cho nhận thức của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân về vị trí, chiến lược của biển, đảo và biên giới, nâng cao ý thức bảo về chủ quyền dân tộc.
Tuyên truyền về biển, đảo; phân giới, cắm mốc và thông tin đối ngoại là 3 lĩnh vực có nội dung rất quan trọng đối với đất nước, luôn được Đảng và Nhà nước coi trọng, chỉ đạo sát sao. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền về biển, đảo, phân giới cắm mốc và thông tin đối ngoại vẫn còn một số hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu.
Đề cập về công tác tuyên truyền phân giới, cắm mốc, đồng chí Phạm Gia Khiêm và đồng chí Tô Huy Rứa nhấn mạnh: Trên toàn tuyến Việt Nam - Trung Quốc, lần đầu tiên trong lịch sử hai nước đã xác định chủ quyền biên giới rõ ràng trên đất liền với hệ thống mốc hiện đại, đặt cơ sở vững chắc cho việc xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài và hợp tác vĩnh viễn giữa hai nước, mở ra trang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Do vậy cần làm tốt công tác tuyên truyền để phát huy thành quả đã đạt được, phân tích, giải thích rõ những nội dung hoàn thành phân giới, cắm mốc cho đồng bào ta và bạn bè quốc tế nhằm tạo sự đồng thuận trong xã hội, sự tin tưởng của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, góp phần phản bác các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch”.
Một hội nghị có nội dung quan trọng như vấn để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ở vào giai đọan đang có những cuộc tranh chấp về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và vùng đặc quyền kinh tế ở Biển Đông lại chỉ quy tụ “các đại diện” cho “lãnh đạo” các bộ, ban, ngành trung ương, các tỉnh, thành phố và các cơ quan tuyên truyền, báo chí” tham dự ?
Vấn để đặt ra với đảng và nhà nước CSVN là những người “đại diện” này có thẩm quyền gì, ngoài nhiệm vụ đến nghe để “báo cáo” lại cho cấp chỉ huy của mình, và sau khi nghe báo cáo rồi họ có làm được việc gì không, hay nghe rồi để đó như đã xẩy ra bao nhiều lần trước đây?
Cũng thắc mắc là tại sao cho đến giờ này, sau khi đảng CSVN đã hoàn tất công tác cắm mốc biên giới với Tàu vào ngày 31/12/2008 rồi mới tuyên truyền cho dân biết ? Tại sao họ không hỏi ý kiến nhân dân, ít ra là qua các cuộc thảo luận công khai tại Quốc hội, để phân tích những điểm lợi và hại của “Hiệp Hiệp ước biên giới trên đất liền” như thế nào trước khi đặt bút ký kết năm 1999?
Bây giờ mọi chuyện đã xong, nhưng người Việt trong cũng như ngoài nước, vẫn chưa được đọc một chữ của Hiệp ước này, và nhà nước cũng chưa có Bản đồ để công bố cho dân coi thì có tuyên truyền cũng chỉ như chuyện “dắt anh mù đi sờ voi”. Nhà nước nói sao thì dân biết vậy là chuyện thừa thãi, nếu không muốn nói là đảng và nhà nước đã coi thường nhân dân, những người làm chủ đất nước.
Trong số những hành động giấu giếm của nhà nước về Hiệp ước 1999 còn có lệnh cấm không cho dân đi quan sát vùng biên giới Tàu-Việt, sau khi họ ngấm ngầm ký kết với Trung Hoa.
Nhưng dù sau này có phát giác ra những sai trái, thiệt thòi cho phía Việt Nam khi so sánh Hiệp ước với thực tế biên giới trên đất liền thì cũng không làm được gì vì mọi chuyện đã xong. Đảng và nhà nước CSVN có thi hành khẩu hiệu để cho “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trước khi ký kết với Trung Hoa đâu?
Vũ Dũng khoe
Mọi người chỉ biết, sau khi đã cắm xong mốc cuối cùng phân ranh giới lãnh thổ hai nước trên đất liền ngày 31-12-2008 thì Vũ Dũng, Thứ trưởng Ngoại giao, Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ với Trung Hoa đã hớn hở khoe trên báo điện tử của Đảng:
“Hai bên đã hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc, phân giới được khoảng 1400km đường biên giới và cắm xong 1971 cột mốc, trong đó có 400km đường biên giới đi theo sông suối biên giới. Đây là một hệ thống cột mốc hiện đại, được ghi nhận lại bằng một hệ thống tọa độ tiên tiến, các vị trí cột mốc chỉ sai số hàng cm và quản lý bằng phần mềm tiên tiến. Đây là hệ thống mốc giới hiện đại, hoàn chỉnh, được quản lý bằng những phương pháp kỹ thuật tiên tiến. Tôi tin rằng, nhân dân cả nước, đồng bào các dân tộc có thể hoàn toàn yên tâm về hệ thống mốc giới này.” (Báo điện tử Đảng CSVN, ngày 25/2/2009)
Trả lời câu hỏi: “Từ việc hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên đất liền, rút ra được những bài học gì cho việc đàm phán phân giới cắm mốc trên biển?”, Vũ Dũng đáp:
“ Giữa Việt Nam – Trung Quốc có 3 vấn đề lịch sử để lại. Thứ nhất là vấn đề biên giới trên bộ. Thứ hai là vấn đề biên giới trong vịnh Bắc Bộ và thứ 3 là vấn đề Biển Đông. Bằng việc kết thúc phân giới cắm mốc trên bộ, chúng ta đã giải quyết được 2 trong 3 vấn đề lịch sử để lại có liên quan đến biên giới lãnh thổ. Việc hoàn thành phân giới cắm mốc đã cho chúng ta một bài học là, đối với các tranh chấp do lịch sử để lại, nếu các bên cùng kiên trì đàm phán, nếu các bên cùng dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, tôn trọng lợi ích và quan tâm của nhau thì hoàn toàn có thể từng bước tìm ra một giải pháp cơ bản lâu dài, hai bên đều chấp nhận được.”
Phóng viên báo đảng hỏi tiếp: “Vậy thưa Thứ trưởng về quá trình đàm phán biên giới trên biển, sắp tới đây được hai bên thống nhất như thế nào?”, Vũ Dũng trả lời:
“Hiện nay hai bên có 3 diễn đàn có liên quan đến biển Đông. Thứ nhất là trưởng đoàn đàm phán chính phủ về biên giới lãnh thổ. Diễn đàn thứ hai là diễn đàn về đàm phán phân định và hợp tác cùng phát triển ở khu vực cửa Vịnh Bắc Bộ. Đến nay hai bên đã đàm phán được nhiều vòng và đã đạt được những thoả thuận mang tính nguyên tắc rất quan trọng đối với khu vực cửa vịnh Bắc Bộ. Diễn đàn thứ 3 là hai bên thảo luận về các vấn đề trên biển, bàn về các vấn đề ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, cụ thể là liên quan đến hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Hai bên cũng đã thoả thuận là sắp tới đây sẽ tăng nhịp độ đàm phán của các diễn đàn này. Tôi tin là hợp tác trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc sắp tới đây sẽ được mở rộng và tăng cường hơn nữa.”
Đó là lời tuyên bố lạc quan tếu, hời hợt và vô trách nhiệm vì “những thoả thuận mang tính nguyên tắc” với Trung Hoa, theo lời ông Dũng, chưa được công bố nhưng nếu căn cứ vào những hành động của Tàu Bắc Kinh trong khoảng thời gian từ cuối năm 2008 đến tháng 3/2009 trên Biển Đông thì rõ ràng là Tàu đã nuốt 16 chữ vàng: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và 4 tốt:“láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.”
Bằng chứng
Trước hết, Trung Hoa đang ra sức tăng cường các cuộc thăm dò khả năng dầu khí và hải sản trong khu vực được gọi là “Đặc quyền kinh tế”, do bản đồ họ tự vẽ ra từ năm 1947, chiếm 75 diện tích trên Biển Đông. Tàu định nhường 25% diện tích còn lại cho Việt Nam, Nam Dương, Brunei, Phi Luật Tân, Mã Lai Á là các Quốc gia đang tranh chấp chủ quyuền lãnh hải ở Biển Đông với Trung Hoa.
Khu vực 75% này, theo Bản đồ của Bắc Kinh, có hình “luỡi bò” mà các chuyên gia Biển Đông ở trong nước đã tiết lộ trong cuộc hội thảo lần đầu tiên tổ chức tại Hà Nội ngày 17-3-2009.
Có hai sự việc nổi bật nhất là báo chí Trung Hoa ngày 10 và 11/12/2008 đã đưa tin, ngày 10/12/2008, Cục Hải Dương Trung Quốc đã họp báo công bố chủ trương khuyến khích các đơn vị, cá nhân khai thác, sử dụng các đảo không có người ở, kể cả hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Báo Tàu Bắc Kinh nói: “ Việc khai thác đảo không có người ở có lợi cho việc bảo vệ chủ quyền biển của Trung Quốc”.
Sau đó, ngày 22/11/2008, Tập đoàn dầu khí Trung Quốc Cnooc Ltd công bố dự án dò dầu khí nước sâu tại Biển Đông. Dự án này có trị giá 200 tỉ nhân dân tệ, tương đương 29 tỉ đôla sẽ được thực hiện từ 2009 cùng với công ti mẹ của họ là tập đoàn Cnooc. Cnooc là tập đoàn dầu khí nhà nước của Trung Hoa.
Vào trung tuần tháng 3/2009, Trung Hoa đưa Tàu Ngư Chính 311 ra họat động trong khu vựa được gọi là “đặc quyền kinh tế” ở Biển Đông. Tàu này, theo báo chí Việt Nam, có trọng lượng 4.450 tấn, dài 135 mét, rộng 15,5 mét, là chiếc tàu lớn nhất trong hạm đội tàu tuần tra ngư trường, có thể đạt tốc độ tối đa 37 cây số một giờ.
Theo báo Tàu ở Bắc Kinh, chiếc tàu tuần tra trên sẽ làm nhiệm vụ tại nơi được gọi là vùng đặc quyền kinh tế trên biển của Trung Quốc tại lãnh hải tranh chấp quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Vũ Trang (Wu Zhuang), Cục trưởng Cục các vấn đề đánh cá và cảng cá ở Biển Đông nói: “Tàu tuần tra sẽ bảo vệ chủ quyền cũng như quyền và lợi ích trên biển của Trung Quốc ở Biển Nam Hoa (Biển Đông). Chúng tôi sẽ mở rộng đội tàu tuần tra trong 3 - 5 năm nữa".
Trước đó, ngày 8/3 còn xảy ra một vụ đụng độ trên biển đã xảy ra giữa tàu thăm dò của hải quân Mỹ và một số tàu của Trung Hoa. Tàu thăm dò USNS Impeccable của Mỹ họat động ở khu vực 75 hải lý phía nam đảo Hải Nam thì bị 5 chiếc Tàu đánh cá và thăm dò của Tàu đến khiêu khích. Trung Hoa nói tàu Impeccable đã vi phạm luật biển của Trung Quốc và quốc tế.
Như vậy, việc Hà Nội mở rộng tuyên truyền về biển đảo là để bảo vệ cho chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, quan trọng nhất là chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hay để “công nhận” những họat động của Tàu vi phạm chủ quyền lãnh hải của Việt Nam đang diễn ra ở Biển Đông?
Có một chi tiết quan trọng mà đảng CSVN muốn giấu dân là khi họ mở cuộc vận động tuyên truyền về Biển Đông thì họ lại không công bố công khai “Hiệp ước phân định vịnh Bắc Bộ 2000” nên không ai biết họ tuyên truyền cái gì và để làm gì!
Nếu bảo để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thì dân phải được biết đảng và nhà nước CSVN đã thoả hiệp với Tàu như thế nào ở vịnh Bắc Bộ chứ không phải cứ như cái trò “bịt mắt bắt dê” hay “nhắm mắt dắt nhau đi sờ voi”.
Đảng cần phải minh bạch chứ không phải chỉ cần dân gây áp lực với Tàu vào thời gian Việt Nam chuẩn bị nói chuyện với Tàu về Biển Đông trong năm nay (2009).
Cũng nên biết cuộc vận động dư luận về biển đảo của Việt Nam đã diễn ra sau khi Hà Nội bật đèn xanh cho việc tổ chức cuộc hội thảo do Học viện Ngoại giao tổ chức lần thứ nhất ngày 17-03-2009 với chủ đề “Tranh chấp chủ quyển tại Biển Đông: Lịch sử, Địa chính trị và Luật pháp quốc tế”.
Có trên 70 chuyên gia về Biển Đông và sử học tham dự và các bài phát biểu của họ đã chĩa mũi dùi vào Trung Hoa để lên án hành động bành trướng lãnh thổ bất hợp pháp của nước này tại Biển Đông, đặc biệt trong khu vực Hoàng Sa và Trường Sa.
Cũng lần đầu tiên, nhà nước CSVN đã để cho các Bài viết, hay phát biểu chống Tàu bịa đặt tài liệu để chiếm quyền kiểm sóat Biển Đông và vi phạm chủ quyền của Việt Nam được tự do đăng báo.
Đáng chú ý hơn cả là trong số các lời phát biểu, có một số học gỉa đã yêu cầu nhà nước phải kêu gọi sự tiếp tay của các học gỉa người Việt chuyên về lịch sử và Biển Đông đang sống ờ nước ngoài tiếp tay với trong nước để tranh thủ với Trung Hoa.
Nhưng liệu đảng CSVN có nghe lời khuyên này hay không và họ sẽ hành động ra sao thì việc đó chưa xẩy ra.
Dù thế nào chăng nữa thì những sự việc vừa diễn ra ở trong nước liên quan đến lãnh thổ và biển đảo cho thấy đảng CSVN đang lâm vào trạng huống lúng túng trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, nhưng mặt khác lại thiếu tích cực để đoàn kết toàn dân và hợp tác với người Việt Nam ở nước ngoài trong hoàn cảnh nước đến chân mới nhảy.
Phạm Trần
ÔNG CHÁU VÔ TỘI
Thương mến tặng cháu bé mang tấm biển : “ ÔNG TÔI VÔ TỘI ”
và kính tặng bà con giáo dân Thái Hà cùng sự hiệp thông của các cộng đoàn.
Đã quá lâu tôi sống giả nơi này
Nay mới thấy giữa trời : Sự thật !
Tháng ba chớm nắng vàng như mật
Hàng vạn người như nước chảy về đây
Tổ tiên ơi ! Con tỉnh ? Hay say ?
Trước mắt con đây là mơ hay thật
Giữa giăng hàng dùi cui, kẽm sắt, …
Người Thái Hà bình thản hát Thánh Ca
Từ miệng con: Thiên Chúa bay ra
Lời Thiên Chúa- Liều thuốc tiên hằng sống !
Con dân Chúa ngồi im như bất động
Hát Thánh Kinh và Cầu Nguyện Hòa Bình
Từ Nhà Thờ thánh thót tiếng cầu kinh
Lạy Thiên Chúa, ban chúng con : SỰ THẬT
Cho chúng con nghị lực làm người
Cầu Nữ Vương – Công Lý của con ơi
Mẹ Hằng Sống trong đức tin vô tận
Nước mắt ôn hòa, an bình nghe tuyên án
Tám gương mặt thánh thần kiêu hãnh giữa linh thiêng
*
* *
Ta không thể nào cầm được trái tim
Khi thấy bé chừng ba, bốn tuổi
Mang tấm biển : “ÔNG TÔI VÔ TỘI”
Giữa nắng vàng, roi điện, dùi cui…
*
* *
Bà con ơi ! Anh chị em ơi
Không thể nói rằng, ta không thể khóc
Hàng vạn người có thể nào bất lực
Cuối chân trời SỰ THẬT lặn mất tăm !
Nước mắt tuôn tràn ta không thể cản ngăn
Giữa hiểm độc sao mặt người đẹp thế !
Các cộng đoàn đều chung một vẻ
Để nhận ra nhau : Công lý – Hòa Bình
Dân Thái Hà vô tội ! sáng lung linh
Có em bé – Người truyền tin của Chúa !
* Tại vườn hoa Hà Đông, sáng ngày 27/3/2009
Tâm tình của một người ngoại đạo
Chương Dương
và kính tặng bà con giáo dân Thái Hà cùng sự hiệp thông của các cộng đoàn.
Đã quá lâu tôi sống giả nơi này
Nay mới thấy giữa trời : Sự thật !
Tháng ba chớm nắng vàng như mật
Hàng vạn người như nước chảy về đây
Tổ tiên ơi ! Con tỉnh ? Hay say ?
Trước mắt con đây là mơ hay thật
Giữa giăng hàng dùi cui, kẽm sắt, …
Người Thái Hà bình thản hát Thánh Ca
Từ miệng con: Thiên Chúa bay ra
Lời Thiên Chúa- Liều thuốc tiên hằng sống !
Con dân Chúa ngồi im như bất động
Hát Thánh Kinh và Cầu Nguyện Hòa Bình
Từ Nhà Thờ thánh thót tiếng cầu kinh
Lạy Thiên Chúa, ban chúng con : SỰ THẬT
Cho chúng con nghị lực làm người
Cầu Nữ Vương – Công Lý của con ơi
Mẹ Hằng Sống trong đức tin vô tận
Nước mắt ôn hòa, an bình nghe tuyên án
Tám gương mặt thánh thần kiêu hãnh giữa linh thiêng
*
* *
Ta không thể nào cầm được trái tim
Khi thấy bé chừng ba, bốn tuổi
Mang tấm biển : “ÔNG TÔI VÔ TỘI”
Giữa nắng vàng, roi điện, dùi cui…
*
* *
Bà con ơi ! Anh chị em ơi
Không thể nói rằng, ta không thể khóc
Hàng vạn người có thể nào bất lực
Cuối chân trời SỰ THẬT lặn mất tăm !
Nước mắt tuôn tràn ta không thể cản ngăn
Giữa hiểm độc sao mặt người đẹp thế !
Các cộng đoàn đều chung một vẻ
Để nhận ra nhau : Công lý – Hòa Bình
Dân Thái Hà vô tội ! sáng lung linh
Có em bé – Người truyền tin của Chúa !
* Tại vườn hoa Hà Đông, sáng ngày 27/3/2009
Tâm tình của một người ngoại đạo
Chương Dương
Rặt Phường vô lại !
Nhân Tòa xử vụ Thái Hà ở Phủ Đơ.
Chỉ vì thước tường mục.
Sao mà phải rùm beng.
Nào hàng rào củi sắt,
Nào cảnh sát nổi chìm...
Người dân vốn hiền lành,
Họ chỉ đòi công lý.
Sao dở trò thô bỉ
Tòa nọ rồi tòa kia!
Trong nước cướp của dân,
Từng mảnh con con ruộng.
Mang đi cống ngoại xâm
Hàng trăm ngàn vạn thước.
Mồn cứ leo lẽo nói :
Nào vì nước vì dân ...
Rặt một phường vô lại
Bán nước và hại dân!
Chợ Đơ 27/3/2009
Bảo Quốc
Chỉ vì thước tường mục.
Sao mà phải rùm beng.
Nào hàng rào củi sắt,
Nào cảnh sát nổi chìm...
Người dân vốn hiền lành,
Họ chỉ đòi công lý.
Sao dở trò thô bỉ
Tòa nọ rồi tòa kia!
Trong nước cướp của dân,
Từng mảnh con con ruộng.
Mang đi cống ngoại xâm
Hàng trăm ngàn vạn thước.
Mồn cứ leo lẽo nói :
Nào vì nước vì dân ...
Rặt một phường vô lại
Bán nước và hại dân!
Chợ Đơ 27/3/2009
Bảo Quốc
CÁI GÌ GIÚP CHO CỘNG SẢN VIỆT NAM VẪN TỒN TẠI
Ngân sách quốc gia của Cộng sản Việt Nam khoảng 20 tỷ$ ; trong khi đó người Việt ở hải ngoại gửi về Việt Nam khoảng 8 tỷ, gần nửa ngân sách quốc gia để tiếp máu cho cộng sản. Nhìn vào những cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ nhân quyền, chống lại cộng sản gần đây ở Nga Sô, Đông Âu, chúng ta thấy những nước này cũng có một cộng đồng hải ngoại rất lớn, nhưng số tiền họ gửi về tiếp máu cho cộng sản rất ít, ngược lại số tiền họ gửi về giúp những tổ chức đấu tranh chống cộng sản lại rất lớn
"Người ta có thể lừa dối một người, hai người, nhưng người ta không thể lừa dối cả một dân tộc. Người ta có thể nói dối một hai lần, nhưng người ta không thể nói dối mãi." (Abraham Lincoln)
Đế quốc cộng sản Liên Sô và Đông Âu đã sụp đổ cách nay đã hàng chục năm, thế mà Cộng sản Việt Nam vẫn tồn tại. Sự kiện này làm cho nhiều người đặt câu hỏi : « Cái gì, lý do gì giúp cộng sản Việt Nam vẫn tồn tại ? «
Chúng ta hãy cùng nhau xem xét vấn đề, để tìm ra câu trả lời thỏa đáng nhất.
I ) Cộng sản Việt Nam không sụp đổ như các nước Đông Âu vào những năm cuối thập niên 80, vì lúc đó Gorbatchev chú trọng đến cải tổ chính nước ông và những nước gần Liên Sô ; đó là Đông Âu. Trong khi đó Cộng sản Việt Nam ở xa. Thêm vào, Gorbatchev không muốn làm sứt mẻ mối bang giao Nga Hoa vừa mới được hàn gắn lại ; và Gorbatchev hi vọng rằng Triệu tử Dương, đương kim Tổng Bí Thư Đảng cộng sản Tàu, cũng là một con người cải cách, sẽ làm thay đổi nước Tàu ; và một khi nước Tàu thay đổi thì Cộng Sản Việt Nam cũng thay đổi theo (1). Không dè ý định cải cách của Triệu tử Dương bị thất bại trong biến cố Thiên an Môn. Liền sau đó phái bảo thủ thắng thế ở Trung Cộng, Triệu tử Dương phải từ chức Tổng bí thư, rồi bị cách chức, thanh trừng, giam lỏng. Cộng sản Việt Nam vội vàng thần phục ngay Trung Cộng, mặc dầu trước đó theo Liên Sô, đã hết lời chửi Trung Cộng.
I I ) Vì chế độ cộng sản Việt Nam là do hai đảng Cộng sản Tàu và Liên sô dựng lên và cũng nhờ ngoại bang mà tồn tại; nên sau khi Liên sô sụp đổ, Cộng sản Việt Nam vội vã phải bám vào Trung cộng qua cuộc họp ở Thành Đô năm 1992.
Có lẽ trong lịch sử Việt Nam chưa có một chính quyền nào vọng ngoại, quỵ lụy ngoại bang, vô liêm sĩ, như chính quyền cộng sản hiện nay. Chúng ta nhớ những lời chửi rủa Trung Cộng, nào là « chủ nghĩa bành trướng và bá quyền Trung Cộng « , « Kẻ thù liền đất, liền biển, liền trời « chưa ráo mực, nay Liên Sô sụp đổ, ý thức rất rõ rằng có được chính quyền là do ngọai bang, nay giữ được chính quyền cũng là do ngoại bang, nên Cộng sản Việt Nam vội vã theo Trung Cộng, gửi một phái đoàn hùng hậu sang Tàu gồm có Tổng bí Thư, Thủ tướng, cố vấn Bộ Chính trị và phần lớn giới lãnh đạo quan trọng trong đảng cộng sản Việt Nam. Trung Cộng đã bỉ mặt Việt Nam bằng cách không tiếp ở thủ đô mà tiếp ở Thành đô, bắt Phái đoàn cộng sản Việt Nam đi đường bộ, chứ không phải đường hàng không ; Đặng tiểu Bình, lúc đầu hứa xuống tiếp xúc ; nhưng sau đó không xuống và còn tuyên bố : « Cộng sản Việt Nam là phường ăn cháo đái bát. Tôi không muốn gặp. » Để hiểu rõ sự nhục nhã của Phái đoàn cộng sản Việt Nam ở Thành Đô năm 1992, tôi xin Quí Vị coi Nhật ký của ông Trần quang Cơ, đương kim Thứ Trưởng Bộ Ngoại giao lúc bấy giờ và có mặt trong phái đoàn.
I I I ) Cộng sản Việt Nam vẫn tồn tại là nhờ tiền của cộng đồng hải ngoại gửi về để tiếp máu
Ngân sách quốc gia của Cộng sản Việt Nam khoảng 20 tỷ$ ; trong khi đó người Việt ở hải ngoại gửi về Việt Nam khoảng 8 tỷ, gần nửa ngân sách quốc gia để tiếp máu cho cộng sản. Nhìn vào những cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ nhân quyền, chống lại cộng sản gần đây ở Nga Sô, Đông Âu, chúng ta thấy những nước này cũng có một cộng đồng hải ngoại rất lớn, nhưng số tiền họ gửi về tiếp máu cho cộng sản rất ít, ngược lại số tiền họ gửi về giúp những tổ chức đấu tranh chống cộng sản lại rất lớn. Hoàn toàn trái ngược với Việt Nam. Tôi không giờ chủ trương là không gửi tiền về, cũng như không bao giờ về Việt Nam, vì chúng ta là con người nhân bản, thương gia đình, yêu quốc gia ; khi bố mẹ chúng ta bệnh hoạn, cần tiền bắt buộc chúng ta phải gửi về. Cũng như tôi hoan hô những người về Việt Nam mà tự biến mình thành một chiến sĩ đấu tranh gián tiếp hay trực tiếp, kín đáo, ầm thầm cho lý tưởng tự do, dân chủ, cho quốc gia, dân tộc. Nhưng tôi rất khinh bỉ những người về Việt Nam để tìm thú vui trên sự đau khổ của dân, ăn một bát phở mà có cả mấy em đứng chung quanh xin lại phần thừa, hay tìm thú vui nhục dục trên thân xác những chị em phụ nữ vì túng quẫn do chế độ cộng sản gây ra, phải bán thân nuôi miệng. Những kẻ này rất là đáng khinh bỉ.
IV ) Cộng sản Việt Nam vẫn tồn tại là vì một số nước Tây phương, bắt đầu bởi Hoa kỳ, muốn nương Cộng sản Việt Nam để từ từ tách Việt Nam ra khỏi quỹ đạo Trung Cộng, trong viễn tượng một cuộc tranh hùng Tây phương- Trung cộng mai sau
Không ai chối cãi hiện nay siêu cường thứ nhất thế giới vẫn là Hoa Kỳ và Hoa kỳ muốn duy trì thế đứng này càng lâu càng tốt. Để được như vậy, có nhiều việc phải làm, trong đó có việc triệt hạ những cường quốc nào không chấp nhận ưu thế của mình, tất nhiên trong đó có Trung cộng. Tuy nhiên chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ luôn luôn là củ cà rốt và cái gậy. Nếu ngoan ngoãn theo Hoa Kỳ, đi theo mô hình tổ chức nhân xã dân chủ, tự do và kinh tế thị trường, chấp nhận luật chơi của thế giới, thì sẽ có phần lợi. Ngược lại, nếu không chịu, thì là cái gậy, cái gậy có thể đi từ kinh tế, thương mại, chính trị, ngoại giao đến ngay cả quân sự, nếu cần. Tất nhiên dùng quân sự, khả thế này rất ít đối với Trung Cộng và Việt Nam ; nhưng cũng không thể loại bỏ hoàn toàn
V ) Để thay đổi thể chế tại Việt Nam và Trung cộng, khả thế dùng quân sự như ở Irak và A phu hãn rất ít có thể, vậy chỉ còn khả thế dùng ngoại giao, kinh tế, thương mại. Tuy nhiên Trung cộng và Việt Nam có khả thế đóng cửa không tiếp xúc với nước ngoài như Bắc Hàn, vì vậy Hoa kỳ và Tây Âu phải ve vãn trước, chẳng khác nào như để con cá cắn câu, thì phải dùng mồi giả dụ con cá, nên thời gian phải lâu, phải lúc mềm lúc cứng, lúc dùng cà rốt, lúc dùng cây gậy.
Ngày hôm nay ai cũng nhìn thấy 2 con cá Trung Cộng và Việt Nam đã cắn câu Hoa Kỳ khá đậm. Tổng sản lượng Trung Cộng khoảng 3 000 tỷ $ ; trong đó hơn 1 000 tỷ $ là ngoại thương mà phần lớn với Hoa Kỳ. Tổng sản lượng Việt Nam khoảng gần 90 tỷ, trong đó hơn 2/3 lệ thuộc ngoại thương, mà phần lớn cũng là xuất cảng sang Hoa Kỳ.
Nếu chúng ta quan sát chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ gần một thế Kỷ nay, thì chúng ta thấy 2 đảng Cộng Hoa và Dân chủ luân phiên nhau đóng vai trò thích hợp của mình tùy theo từng hoàn cảnh. Trong 8 năm qua của chính quyền Cộng Hòa, đó là dụ 2 con cá Trung Cộng và Việt Nam cắn câu và đã cắn câu, nay đến lượt đảng Dân chủ giật. Nhưng ngày giờ, năm nào giật, thì chưa rõ.
VI ) Cộng sản Việt Nam còn tồn tại là vì quá ác ôn, côn đồ, núp dưới 3 phòng tuyến : 1) Bộ máy thông tin tuyên truyền bôi bác sự thật và cho dân ăn bánh vẽ, mặc dầu sự thật hoàn toàn trái ngược, với 700 tờ báo và 200 đài phát thanh ra rả tuyên truyền theo kiểu Đức quốc xã của Goebel : « Một sự việc dầu sai, không đúng sự thật ; nhưng chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần, lúc đầu dân không nghe, còn bán tín bán nghi, nhưng nhắc mãi thì dân tin đó là sự thật. » Bộ máy tuyên truyền này được sự trợ giúp không nhỏ của một số trí thức hèn hạ, bán rẻ lương tâm để phục vụ bạo quyền chỉ vì một số đặc quyền, đặc lợi ; 2) Bộ máy công an dọa nạt với cái súng cái còng, phụ thêm với bộ máy pháp lý vu khống chụp mũ : Tất cả những người nói lên sự thật, nhưng không đúng với đường lối chế độ đều bị chụp mũ là phản động, âm mưu lật đổ chính quyền ; 3) Chính sách hộ khẩu : Tất nhiên ngày hôm nay chính sách hộ khẩu không có thể áp dụng với toàn dân như khi trước. Tuy nhiên nó vẫn được áp dụng đối với những người đấu tranh cho tự do, dân chủ, bằng cách không những làm cho họ mất việc làm, mà cả chồng con và ngay cả những người trong gia đình của họ. Thêm vào đó gần đây bạo quyền còn thuê những du côn, du kề ném cứt vào nhà cố Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Mác-Lê, Hoàng minh Chính và nhà văn Trần khải thanh Thuỷ. Quả là một chính quyền du côn, vô liêm sỉ, lịch sử Việt Nam và ngay cả lịch sử thế giới không có một chính quyền nào mạt hạng như vậy. Không thể nói những vụ này là không có quyết định của Bộ Chính trị và những lãnh đạo cao cấp cộng sản.
Tôn Tử có viết : » Người giỏi trong những người giỏi, đó là khuất phục quân địch mà không làm tan quân địch ; chiếm được thành người mà không làm bể thành người ; lấy đuợc nước người mà không làm vỡ nước người. «
Cộng sản Việt Nam không phải là người giỏi trong những người giỏi ; vì khuất phục được quân miền Nam, nhưng đã làm tan quân miền Nam ; chiếm được thành miền Nam, nhưng đã làm vỡ thành ; lấy được nước miền Nam, nhưng đã làm vỡ nước.
Thêm vào đó, ngày hôm nay, người ta thấy cảnh không những quân Việt Nam Cộng hòa tan, mà quân cộng sản cũng bắt đầu tan ; với cảnh : « Đầu đường đại tá vá xe ; cuối đường thiếu tướng bán chè đậu đen ; « Đại tá và tướng đây là cộng sản. Thành VNCH tan, nhưng thành cộng sản cũng bắt đầu bể ; với sự kiện dân đã nhìn thấy rõ bộ mặt buôn dân, án nước của cộng sản, dâng đất nhượng biển cho Tàu, thản nhiên cụng ly, ăn mừng « Tình hữu nghị Việt Hoa muôn đời thắm tươi « , trong khi đó thì hải quân Trung Cộng bắn chết ngư phủ Việt Nam. Nước VNCH vỡ, nhưng nước cộng sản cũng bắt đầu vỡ ; với sự kiện những « Bà mẹ chiến sĩ « nay phải xuống đường, biểu tình chống đối vì oan ức, bất công.
Chế độ cộng sản Việt Nam không thể tồn tại lâu dài nữa, sớm ngày sẽ sụp đổ, vì lòng dân oán hận, đi ngược lại lòng dân ; vì cộng sản độc đóan, độc tài, đi ngược lại chiều hướng tiến bộ của văn minh nhân lọai ; đó là tôn trọng tự do, dân chủ, nhân quyền.
Paris ngày 26/03/2009
Chu chi Nam
(1) Xin xem thêm những bài về Liên Sô và Đông Âu, trên http://perso.orange.fr/chuchinam/
"Người ta có thể lừa dối một người, hai người, nhưng người ta không thể lừa dối cả một dân tộc. Người ta có thể nói dối một hai lần, nhưng người ta không thể nói dối mãi." (Abraham Lincoln)
Đế quốc cộng sản Liên Sô và Đông Âu đã sụp đổ cách nay đã hàng chục năm, thế mà Cộng sản Việt Nam vẫn tồn tại. Sự kiện này làm cho nhiều người đặt câu hỏi : « Cái gì, lý do gì giúp cộng sản Việt Nam vẫn tồn tại ? «
Chúng ta hãy cùng nhau xem xét vấn đề, để tìm ra câu trả lời thỏa đáng nhất.
I ) Cộng sản Việt Nam không sụp đổ như các nước Đông Âu vào những năm cuối thập niên 80, vì lúc đó Gorbatchev chú trọng đến cải tổ chính nước ông và những nước gần Liên Sô ; đó là Đông Âu. Trong khi đó Cộng sản Việt Nam ở xa. Thêm vào, Gorbatchev không muốn làm sứt mẻ mối bang giao Nga Hoa vừa mới được hàn gắn lại ; và Gorbatchev hi vọng rằng Triệu tử Dương, đương kim Tổng Bí Thư Đảng cộng sản Tàu, cũng là một con người cải cách, sẽ làm thay đổi nước Tàu ; và một khi nước Tàu thay đổi thì Cộng Sản Việt Nam cũng thay đổi theo (1). Không dè ý định cải cách của Triệu tử Dương bị thất bại trong biến cố Thiên an Môn. Liền sau đó phái bảo thủ thắng thế ở Trung Cộng, Triệu tử Dương phải từ chức Tổng bí thư, rồi bị cách chức, thanh trừng, giam lỏng. Cộng sản Việt Nam vội vàng thần phục ngay Trung Cộng, mặc dầu trước đó theo Liên Sô, đã hết lời chửi Trung Cộng.
I I ) Vì chế độ cộng sản Việt Nam là do hai đảng Cộng sản Tàu và Liên sô dựng lên và cũng nhờ ngoại bang mà tồn tại; nên sau khi Liên sô sụp đổ, Cộng sản Việt Nam vội vã phải bám vào Trung cộng qua cuộc họp ở Thành Đô năm 1992.
Có lẽ trong lịch sử Việt Nam chưa có một chính quyền nào vọng ngoại, quỵ lụy ngoại bang, vô liêm sĩ, như chính quyền cộng sản hiện nay. Chúng ta nhớ những lời chửi rủa Trung Cộng, nào là « chủ nghĩa bành trướng và bá quyền Trung Cộng « , « Kẻ thù liền đất, liền biển, liền trời « chưa ráo mực, nay Liên Sô sụp đổ, ý thức rất rõ rằng có được chính quyền là do ngọai bang, nay giữ được chính quyền cũng là do ngoại bang, nên Cộng sản Việt Nam vội vã theo Trung Cộng, gửi một phái đoàn hùng hậu sang Tàu gồm có Tổng bí Thư, Thủ tướng, cố vấn Bộ Chính trị và phần lớn giới lãnh đạo quan trọng trong đảng cộng sản Việt Nam. Trung Cộng đã bỉ mặt Việt Nam bằng cách không tiếp ở thủ đô mà tiếp ở Thành đô, bắt Phái đoàn cộng sản Việt Nam đi đường bộ, chứ không phải đường hàng không ; Đặng tiểu Bình, lúc đầu hứa xuống tiếp xúc ; nhưng sau đó không xuống và còn tuyên bố : « Cộng sản Việt Nam là phường ăn cháo đái bát. Tôi không muốn gặp. » Để hiểu rõ sự nhục nhã của Phái đoàn cộng sản Việt Nam ở Thành Đô năm 1992, tôi xin Quí Vị coi Nhật ký của ông Trần quang Cơ, đương kim Thứ Trưởng Bộ Ngoại giao lúc bấy giờ và có mặt trong phái đoàn.
I I I ) Cộng sản Việt Nam vẫn tồn tại là nhờ tiền của cộng đồng hải ngoại gửi về để tiếp máu
Ngân sách quốc gia của Cộng sản Việt Nam khoảng 20 tỷ$ ; trong khi đó người Việt ở hải ngoại gửi về Việt Nam khoảng 8 tỷ, gần nửa ngân sách quốc gia để tiếp máu cho cộng sản. Nhìn vào những cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ nhân quyền, chống lại cộng sản gần đây ở Nga Sô, Đông Âu, chúng ta thấy những nước này cũng có một cộng đồng hải ngoại rất lớn, nhưng số tiền họ gửi về tiếp máu cho cộng sản rất ít, ngược lại số tiền họ gửi về giúp những tổ chức đấu tranh chống cộng sản lại rất lớn. Hoàn toàn trái ngược với Việt Nam. Tôi không giờ chủ trương là không gửi tiền về, cũng như không bao giờ về Việt Nam, vì chúng ta là con người nhân bản, thương gia đình, yêu quốc gia ; khi bố mẹ chúng ta bệnh hoạn, cần tiền bắt buộc chúng ta phải gửi về. Cũng như tôi hoan hô những người về Việt Nam mà tự biến mình thành một chiến sĩ đấu tranh gián tiếp hay trực tiếp, kín đáo, ầm thầm cho lý tưởng tự do, dân chủ, cho quốc gia, dân tộc. Nhưng tôi rất khinh bỉ những người về Việt Nam để tìm thú vui trên sự đau khổ của dân, ăn một bát phở mà có cả mấy em đứng chung quanh xin lại phần thừa, hay tìm thú vui nhục dục trên thân xác những chị em phụ nữ vì túng quẫn do chế độ cộng sản gây ra, phải bán thân nuôi miệng. Những kẻ này rất là đáng khinh bỉ.
IV ) Cộng sản Việt Nam vẫn tồn tại là vì một số nước Tây phương, bắt đầu bởi Hoa kỳ, muốn nương Cộng sản Việt Nam để từ từ tách Việt Nam ra khỏi quỹ đạo Trung Cộng, trong viễn tượng một cuộc tranh hùng Tây phương- Trung cộng mai sau
Không ai chối cãi hiện nay siêu cường thứ nhất thế giới vẫn là Hoa Kỳ và Hoa kỳ muốn duy trì thế đứng này càng lâu càng tốt. Để được như vậy, có nhiều việc phải làm, trong đó có việc triệt hạ những cường quốc nào không chấp nhận ưu thế của mình, tất nhiên trong đó có Trung cộng. Tuy nhiên chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ luôn luôn là củ cà rốt và cái gậy. Nếu ngoan ngoãn theo Hoa Kỳ, đi theo mô hình tổ chức nhân xã dân chủ, tự do và kinh tế thị trường, chấp nhận luật chơi của thế giới, thì sẽ có phần lợi. Ngược lại, nếu không chịu, thì là cái gậy, cái gậy có thể đi từ kinh tế, thương mại, chính trị, ngoại giao đến ngay cả quân sự, nếu cần. Tất nhiên dùng quân sự, khả thế này rất ít đối với Trung Cộng và Việt Nam ; nhưng cũng không thể loại bỏ hoàn toàn
V ) Để thay đổi thể chế tại Việt Nam và Trung cộng, khả thế dùng quân sự như ở Irak và A phu hãn rất ít có thể, vậy chỉ còn khả thế dùng ngoại giao, kinh tế, thương mại. Tuy nhiên Trung cộng và Việt Nam có khả thế đóng cửa không tiếp xúc với nước ngoài như Bắc Hàn, vì vậy Hoa kỳ và Tây Âu phải ve vãn trước, chẳng khác nào như để con cá cắn câu, thì phải dùng mồi giả dụ con cá, nên thời gian phải lâu, phải lúc mềm lúc cứng, lúc dùng cà rốt, lúc dùng cây gậy.
Ngày hôm nay ai cũng nhìn thấy 2 con cá Trung Cộng và Việt Nam đã cắn câu Hoa Kỳ khá đậm. Tổng sản lượng Trung Cộng khoảng 3 000 tỷ $ ; trong đó hơn 1 000 tỷ $ là ngoại thương mà phần lớn với Hoa Kỳ. Tổng sản lượng Việt Nam khoảng gần 90 tỷ, trong đó hơn 2/3 lệ thuộc ngoại thương, mà phần lớn cũng là xuất cảng sang Hoa Kỳ.
Nếu chúng ta quan sát chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ gần một thế Kỷ nay, thì chúng ta thấy 2 đảng Cộng Hoa và Dân chủ luân phiên nhau đóng vai trò thích hợp của mình tùy theo từng hoàn cảnh. Trong 8 năm qua của chính quyền Cộng Hòa, đó là dụ 2 con cá Trung Cộng và Việt Nam cắn câu và đã cắn câu, nay đến lượt đảng Dân chủ giật. Nhưng ngày giờ, năm nào giật, thì chưa rõ.
VI ) Cộng sản Việt Nam còn tồn tại là vì quá ác ôn, côn đồ, núp dưới 3 phòng tuyến : 1) Bộ máy thông tin tuyên truyền bôi bác sự thật và cho dân ăn bánh vẽ, mặc dầu sự thật hoàn toàn trái ngược, với 700 tờ báo và 200 đài phát thanh ra rả tuyên truyền theo kiểu Đức quốc xã của Goebel : « Một sự việc dầu sai, không đúng sự thật ; nhưng chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần, lúc đầu dân không nghe, còn bán tín bán nghi, nhưng nhắc mãi thì dân tin đó là sự thật. » Bộ máy tuyên truyền này được sự trợ giúp không nhỏ của một số trí thức hèn hạ, bán rẻ lương tâm để phục vụ bạo quyền chỉ vì một số đặc quyền, đặc lợi ; 2) Bộ máy công an dọa nạt với cái súng cái còng, phụ thêm với bộ máy pháp lý vu khống chụp mũ : Tất cả những người nói lên sự thật, nhưng không đúng với đường lối chế độ đều bị chụp mũ là phản động, âm mưu lật đổ chính quyền ; 3) Chính sách hộ khẩu : Tất nhiên ngày hôm nay chính sách hộ khẩu không có thể áp dụng với toàn dân như khi trước. Tuy nhiên nó vẫn được áp dụng đối với những người đấu tranh cho tự do, dân chủ, bằng cách không những làm cho họ mất việc làm, mà cả chồng con và ngay cả những người trong gia đình của họ. Thêm vào đó gần đây bạo quyền còn thuê những du côn, du kề ném cứt vào nhà cố Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Mác-Lê, Hoàng minh Chính và nhà văn Trần khải thanh Thuỷ. Quả là một chính quyền du côn, vô liêm sỉ, lịch sử Việt Nam và ngay cả lịch sử thế giới không có một chính quyền nào mạt hạng như vậy. Không thể nói những vụ này là không có quyết định của Bộ Chính trị và những lãnh đạo cao cấp cộng sản.
Tôn Tử có viết : » Người giỏi trong những người giỏi, đó là khuất phục quân địch mà không làm tan quân địch ; chiếm được thành người mà không làm bể thành người ; lấy đuợc nước người mà không làm vỡ nước người. «
Cộng sản Việt Nam không phải là người giỏi trong những người giỏi ; vì khuất phục được quân miền Nam, nhưng đã làm tan quân miền Nam ; chiếm được thành miền Nam, nhưng đã làm vỡ thành ; lấy được nước miền Nam, nhưng đã làm vỡ nước.
Thêm vào đó, ngày hôm nay, người ta thấy cảnh không những quân Việt Nam Cộng hòa tan, mà quân cộng sản cũng bắt đầu tan ; với cảnh : « Đầu đường đại tá vá xe ; cuối đường thiếu tướng bán chè đậu đen ; « Đại tá và tướng đây là cộng sản. Thành VNCH tan, nhưng thành cộng sản cũng bắt đầu bể ; với sự kiện dân đã nhìn thấy rõ bộ mặt buôn dân, án nước của cộng sản, dâng đất nhượng biển cho Tàu, thản nhiên cụng ly, ăn mừng « Tình hữu nghị Việt Hoa muôn đời thắm tươi « , trong khi đó thì hải quân Trung Cộng bắn chết ngư phủ Việt Nam. Nước VNCH vỡ, nhưng nước cộng sản cũng bắt đầu vỡ ; với sự kiện những « Bà mẹ chiến sĩ « nay phải xuống đường, biểu tình chống đối vì oan ức, bất công.
Chế độ cộng sản Việt Nam không thể tồn tại lâu dài nữa, sớm ngày sẽ sụp đổ, vì lòng dân oán hận, đi ngược lại lòng dân ; vì cộng sản độc đóan, độc tài, đi ngược lại chiều hướng tiến bộ của văn minh nhân lọai ; đó là tôn trọng tự do, dân chủ, nhân quyền.
Paris ngày 26/03/2009
Chu chi Nam
(1) Xin xem thêm những bài về Liên Sô và Đông Âu, trên http://perso.orange.fr/chuchinam/
28 March 2009
GIỖ QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG
Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Trước sau một phần lỗi lớn cũng bởi tại chúng ta gây nên. Cho đến giờ phút nầy, vẫn chưa thấy người Việt hải ngoại cụ thể đóng góp được gì khả dĩ cùng nhân dân trong nước sớm hóa giải được quyền lực cộng sản để tái thiết quốc gia. Nguyên nhân và lý do chính, là chúng ta chỉ thích đóng kịch, làm giả nhiều hơn thiệt. Ngoài ra còn cái nạn phân hóa trầm trọng. Có thể nói chính đây là căn bệnh trầm kha của người Việt quốc gia, và chính nó là nguyên nhân làm cho miền Nam bị sụp đổ
Từ ngàn xưa trên giải giang sơn gấm vóc Việt Nam, mỗi năm cứ đến độ xuân về, khi trăm hoa khoe sắc và chim muông ca hót thì tất cả con dân đất Việt khắp nơi, từ thành thị đến thôn quê, ai nấy đều quây quần với nhau tại những nơi trang nghiêm như đình chùa và nhà làng để làm lễ Giỗ Tổ. Quốc lịch gọi là lễ Hùng Vương. Lễ được ấn định vào ngày mồng l0 tháng 3 âm lịch. Đây là nghi lễ truyền thống để nhắc nhở con cháu nhớ đến cội nguồn dân tộc, tưởng nhớ đến công ơn các vị vua Hùng thuộc họ Hồng Bàng dựng nước. Chính nhờ các Ngài mà ngày nay con cháu mới có được một mảnh đất dung thân.
Xin nhắc lại, hai vị Khởi Tổ của dân tộcViệt đã sống vào thời khuyết sử nên các nhà sử học chỉ ghi chép lại đôi dòng về các vị Thủy tổ, trong đó có Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ sinh ra một bọc một trăm trứng và nở thành một trăm con; ngoài ra không nói rõ chi tiết sinh hoạt của các vị như thế nào. Với đà phát triển, lòng kính mến và biết ơn sâu xa đối với hai vị Khởi Tổ nên từ mấy ngàn năm trước, Tổ Tiên ta đã tôn hai Ngài thành Biểu Tượng Linh Thiêng là Tiên và Rồng. Dân Việt âu yếm gọi hai Ngài là Mẹ Tiên, Cha Rồng. Cho tới nay hồn thiêng của hai Ngài vẫn linh hiển và với sứ mệnh sinh sản cả một dân tộc đông đúc siêu vượt, hai Ngài là Tổ trên hết các Tổ của Tộc Việt.
Cùng với hai vị Khởi Tổ, nguồn gốc tộc Việt cũng được truyền thống văn hóa thăng hoa kết tinh thành chuyện Tiên Rồng và đã được truyền miệng một cách phổ quát cho toàn thể dân chúng suốt mấy ngàn năm qua: giống dân Việt khởi nguồn từ một ông Rồng nói với bà Tiên:”Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, nàng đem 50 con lên núi, ta đem 50 con xuống biển khi cần thì gọi nhau về.”-Từ đó dòng giống Việt mỗi ngày một phát triển, và theo đặc tính địa phương, chia thành nhiều nhánh.
Theo biễu tượng Bọc Trăm Con, các nhánh của Tộc Việt thường được gọi chung là Bách Việt. Một trong các nhánh đó là Lạc Việt. Với thời gian, một phần các nhánh Lạc Việt ở cực Nam thành lập quốc gia, nay là Việt Nam.
Theo quan niệm chung của dân tộc Việt, nước Việt Nam được thành lập do nhiều vị Quốc Tổ. Quốc Tổ không phải chỉ là vua đầu tiên, mà gồm có mười tám vị gọi là vua Hùng. Như vậy, quan niệm lập quốc của dân Việt nhấn mạnh đến sự thành hình của một dân tộc, một nền văn hóa hơn là thành lập một quốc gia theo nghĩa chính trị hiện nay.
Theo truyền thống cao quý nói trên nên không những trong nước, mà tại hải ngoại, giữa nơi đất khách quê người, bất cứ ở đâu, hàng năm chúng ta đều tổ chức lễ Giỗ Quốc Tổ để nhắc nhở và hướng dẫn con cháu luôn hướng về cội nguồn dân tộc.
Trước bàn thờ Tổ Quốc có linh vị của Quốc Tổ, trong không khí trang nghiêm cùng khói hương nghi ngút do con cháu thắp lên để tưởng nhớ đến các Ngài. Có thể nói đây là cơ hội thuận tiện và quý báu cho chúng ta dành đôi phút suy tư để nghĩ đến Quốc Gia Dân Tộc; tự xét lại trong cuộc đời mình đã làm, hay đóng góp được thêm gì cho gia tài quý giá của tiền nhân để lại. Bằng biết bao công lao khó nhọc, các Ngài đã kiến quốc, cứu quốc, mở mang bờ cỏi để lại cho con cháu hậu thế một giải giang sơn gấm vóc cùng với một nền đạo lý và văn hóa vững vàng mang tính chất của giòng giống Lạc Việt; chính nhờ vậy mà l0 thế kỷ dưới ách nô lệ của kẻ thù phương Bắc và gần non một thế kỷ bị thực dân Tây phương đàn áp, nhưng ngoại bang không thể làm sao đồng hóa nổi và cũng không thể phá hủy được truyền thống quý báu của giòng giống Lạc Việt.
Hãy tự hỏi, tất cả chúng ta đã làm được những gì để đóng góp thêm cho di sản thiêng liêng của tổ tiên để lại? Hay chúng ta chẳng những không bồi đắp mà còn nở lòng phá hoại?
Xét lại những trang sử cận đại, trong hơn nửa thế kỷ qua, trên mảnh đất Việt thân yêu mà các vị Quốc Tổ từng tốn bao công sức xây dựng đã trở thành bãi chiến trường loang máu do chính con cháu gây ra. Hãy đọc lại một vài câu thơ được lưu truyền trong dân gian mô tả nổi thống khổ của người dân bị đọa đầy bởi các thế lực đối kháng, kẹp giữa hai lằn đạn:
Chốn thành thị An ninh Bảo vệ
Miền thôn quê Tự vệ Công an
Bốn bề Vệ Bảo Ninh An
Dân càng chết kẹt, chết oan, chết phiền.
Hoặc:
Nhiều gia quyến hai bên mắc nghẹt
Kẻ bên nầy người kẹt bên kia
Anh em cha chú phân ly
Chồng xa vợ mọn mẹ lìa con thơ.
Miệng lưởi của người cộng sản thường rêu rao “Tình ruột thịt nghĩa đồng bào”nhưng khi có được lợi thế nhờ mưu mô xảo quyệt, nhờ được sự hổ trợ của Cộng Sản Quốc Tế thì bọn chúng lại đưa dân tộc vào cảnh hủy diệt tương tàn và bọn chúng đã thẳng tay đàn áp đồng bào bằng những thủ đoạn độc ác nhứt trong lịch sử dân tộc cũng như lịch sử nhân loại.
Bạo quyền Hà Nội sẽ nói thế nào trước vong linh của Quốc Tổ về những thủ đoạn đê hèn mà chúng đã dùng để thủ tiêu và tận diệt những tinh hoa của đất nước; những người đã từng đồng lao cộng khổ với chúng trong cuộc đấu tranh dành lại độc lập cho quê hương từ tay thực dân Pháp? Thử hỏi, biết đến mấy thế hệ nữa Việt Nam mới có được những nhân tài đầy lòng ái quốc, biết dùng mối đạo để phục vụ quốc gia như Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ; một lãnh tụ Lê Ninh (tự Lê Khang ) của Việt Nam Quốc Dân Đảng tài ba thao lược, nhiều kinh nghiệm chiến đấu và tài tổ chức, kế thừa truyền thống của người anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học; hoặc như lãnh tụ Lý Đông A ( tức Nguyễn Hữu Thanh) của Đại Việt Duy Dân, tuổi trẻ tài cao, uyên thâm bác học. Với tư chất thông minh thiên phú, ông ta đã lý giải sự việc một cách rất nhanh chóng chỉ một khoản khắc ngắn, trong khi mà các nhà khoa bảng thời danh khác phải mất hàng tháng mới làm nồi. Sau cùng là sự kiện của ông Trương Tửû Anh, Đảng Trưởng Đại Việt Quốc Dân Đảng, từ 22 tuồi, ông đã nghiên cứu tạo lập chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn thích hợp cho dân Việt và đã trở thành sấm ngữ khi thực tế chứng minh cho lời tiên đoán về sự sụp đổ của chủ nghĩa Duy Vật Biện Chứng Pháp của Cộng Sản Quốc Tế. Chính chủ thuyết của ông là kim chỉ nam của Đại Việt Quốc Dân Đảng trong sự nghiệp đấu tranh dành độc lập cho quốc gia. Khi mới được 25 tuổi, nhà lãnh tụ tài ba nầy đã được hai đảng cách mạng tiền phong là Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng bầu làm chủ tịch của Mặt Trận Quốc Dân Đảng để chống lại Mặt Trận Việt Minh Cộng Sản.
Tất cả những thiên tài ái quốc và lổi lạc nói trên đã bị bọn Cộng Sản Việt Nam ám hại chỉ vì quyền lợi của Cộng Sản quốc tế.
Sau khi nhờ được yểm trợ tối đa của cộng sản quốc tế chiếm được nửa nước, bọn CSVN đã tiến sâu vào con đường tội ác. Với chủ trương cải cách ruộng đất, bọn chúng đã làm đảo lộn luân thường đạo lý, và truyền thống của dân tộc Việt; chúng bày ra cảnh đấu tố, dậy con tố cha, vợ tố chồng, chỉ đạo giai cấp đấu tranh, chia để trị và dể bề bóc lột. Tới khi lợi dụng được thời cơ đánh chiếm được miền Nam, người cộng sản lại tiến hành hủy diệt văn hóa và trí thức bằng chính sách cải tạo, tịch thu sách vở, biến những người làm văn hóa trở thành những lợi khí nô dịch.. Do đó, chỉ mới hơn vài thập niên đàn áp, cộng sản đã làm thoái hoá cả một thế hệ con dân của Mẹ Việt Nam.
Hiện những người cộng sản đang tiếp tục phá hoại sự nghiệp của Tiền Nhân bằng cách bán đất nhường biển cho kẻ thù phương Bắc; khốn nạn hơn, buôn bán đàn bà và trẻ em cho ngoại nhân để làm nô lệ tình dục. Bọn người man rợ cộng sản sau khi bị đồng bào trong nước và hãi ngoại đồng loạt lên án về tội ác bán nước buôn dân, bèn tìm cách đánh lận con đen bằng cách nâng ngày Giỗ Quốc Tổ lên hàng “quốc lễ”, ngụ ý là bọn họ vẫn tôn thờ Quốc Tổ. Qủa thật đây là một lối phỉnh gạt trắng trợn. Lý do, CSVN làm gì có tổ quốc. Với họ, tổ quốc đồng nghĩa với xã hội chủ nghĩa. Vì “yêu Tổ Quốc là yêu Xả Hội Chủ Nghĩa”Tổ quốc của Cộâng Sản Việt Nam là Liên Xô. Và tổ tiên của bọn họ là Mác, Lê Nin và Mao. Nay Liên xô đã không còn thì CSVN quay sang sùng bái Trung Cộng và những tay đầu sỏ tại Trung-Nam-Hải.
Người cộng sản thì phá hoại như thế thế còn người Việt Quốc gia đã đóng góp gì cho đất nước? Cộng đồng người Việt hải ngoại trên ba triệu người, kẻ trước người sau bỏ nước ra đi sau ngày 30 tháng 4 đã cống hiến được gì cho quê hương ?
Hãy trung thực, và can đảm kiểm điểm lại, chúng ta chỉ thấy được một ít kết quả quá ư là khiêm nhượng. Có nhiều người cho rằng 30-4 là ngày Quốc Hận để ghi nhớ biến cố tang thương khiến người dân Việt miền Nam phải từ bỏ quê cha đất tổ ra đi lánh nạn cộng sản. Những cũng từ sự bất hạnh nầy, đã có biết bao kẻ may mắn được công thành danh toại ở xứ người. Đã có biết bao thanh niênViệt đã may mắn học được cái hay và những kỷ thuật tân tiến của ngoại quốc, đổ đạt hiển hách, thành công vược bực trên hai phương diện kiến thức cũng như tài chánh. Họ thích được đánh bóng là người vẻ vang dân Việt . Nhưng trong đó chẳng ai nghe nói đến những gì họ đóng góp cho quê hương về các thành quả mà họ đã gặt hái được.
Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Trước sau một phần lỗi lớn cũng bởi tại chúng ta gây nên. Cho đến giờ phút nầy, vẫn chưa thấy người Việt hải ngoại cụ thể đóng góp được gì khả dĩ cùng nhân dân trong nước sớm hóa giải được quyền lực cộng sản để tái thiết quốc gia. Nguyên nhân và lý do chính, là chúng ta chỉ thích đóng kịch, làm giả nhiều hơn thiệt. Ngoài ra còn cái nạn phân hóa trầm trọng. Có thể nói chính đây là căn bệnh trầm kha của người Việt quốc gia, và chính nó là nguyên nhân làm cho miền Nam bị sụp đổ và chính đó là một trở ngại lớn trong việc phục hưng đất nước.
Phải hãnh diện mà nói là trong lịch sử ngôn ngữ của văn minh nhân loại, chỉ có dân Việt Nam mới tự hào dùng chữ Đồng Bào để gọi nhau,(vì chung một bào thai của mẹ Việt) tượng trưng cho tinh thần Đoàn Kết. Quốc Tổ vì sự nghiệp mở mang bờ cõi mới phải chia nhau, người lên núi kẻ xuống biển, ra đi khắp bốn phương tám hướng nhưng Ngài quyết định để người Trưởng Nam ở lại làm vua, tiếp tục nắm giữ giếng mối quốc gia tượng trưng cho việc thống nhất đất nước. Quốc Tổ vì sự nghiệp quốc gia đã hành động như thế, trong khi đó con cháu của Ngài thì làm trái ngược lại.
Trong nước thì bọn CSVN càng ngày càng gian ác, nhất quyết trị dân bằng bạo lực; hàng ngũ đối kháng đã thấy được họa diệt vong những chưa có khả năng kết tụ được. Kẻ ra đi, khi đã may mắn đến bờ tự do thì chia năm xẻ bảy, phân hóa trầm trọng chỉ vì không san bằng được dị biệt. Thật ra dị biệt đâu có gì là sai quấy, trong sinh hoạt, sai quấy là thái độ tương quan của dị biệt. Thay vì phải coi dị biệt như là những yếu tố làm thêm phong phú cho văn hóa, thêm vị tươi và sống động cho cuộc sống mà không gây trở ngại cho sự thuần nhất quốc gia. Oái ăm thay, ở đây đồng bào chúng ta lại xem dị biệt như là bức tường kiên cố ngăn chận cá nhân nầy với cá nhân khác, tập thể nầy với tập thể khác để đến nổi đưa đến tình trạng rả rời và tan nát. Cũng vì nguyên nhân nói trên mà từ trước đến nay, hải ngoại chưa bao giờ kết tụ nổi thành một khối khả dĩ tạo thành được một cái lực đáng kể và cần thiết trong việc tranh đấu cho mục tiêu chung. Tất cả mọi người ai cũng biết đến điều đó, từ trước đến nay đã có biết bao cố gắng và biết bao nhiêu lần tìm cách tập họp nhưng cũng đã bấy nhiêu tan vở, và mỉa mai thay, những nơi tập họp lại chính là những chốn mà hiện tượng phân hóa dể dàng xuất hiện nhất. Và, ai cũng kêu gọi đoàn kết, nhưng là đoàn kết sau lưng họ chứ không phải để có sức mạnh.
Tại sao, vì nguyên nhân nào? Xin thưa là tại cái tôi trong chúng ta quá lớn, đó là chưa kể những yếu tố khác làm trì trệ, như đầu óc kiêu căng đố kỵ, lòng vị kỷ và tệ hơn nữa là tinh thần ganh tỵ với những ai tỏ ra có khả năng hơn mình, chỉ vì bản tính tự cho mình là cái rốn của vũ trụ. Lý do đó mới dẫn đến việc lạm phát hội đoàn, đảng phái. Trong cộng đồng chẳng ai bảo được ai vì thế mới có tình trạng thừa lãnh tụ nhưng lại thiếu lãnh đạo. Hãy can đảm để nhìn nhận sự thật, đừng nghĩ chi đến việc so sánh với những cộng đồng dân tộc nổi tiếng như Do Thái, Cuba, ngay đến những cộng đồng nhỏ của các nước lân bang với Việt Nam như Lào, Cam Bốt, trong sinh hoạt người Việt hải ngoại chưa có sự gắn bó như họ đã làm được. Với tình trạng yếu kém nầy, hải ngoại làm sao có thể áp lực để Cộng Sản Việt Nam từ bỏ quyền lực.
Lịch sử là một tấn kịch được tái diễn không ngừng. Chúng ta mấy ai ngờ đế quốc cộng sản lại sụp đổ mau chóng như vậy. Giả dụ một ngày nào đó, CSVN thấy là không thể nào tiếp tục đường lối độc tài đảng trị được bèn nghĩ đến chuyện mời những người trong nước cũng như hải ngoại cùng chung lo việc tái thiết quốc gia. (Đây chỉ là giả thiết, vì VC có bao giờ chia quyền cho ai; ngược lại hải ngoại biết đến khi nào mới đủ lực để nói chuyện với nó). Thử hỏi, liệu những ai và đoàn thể nào dám nhận trọng trách lịch sử đó? Dám hỏi những vị khoa bảng đã từng được đào tạo trong nếp sống văn minh, hưởng thụ vật chất Tây phương, có thể hy sinh trở về phục vụ quốc gia trong một tình trạng bán khai như Việt Nam hiện nay hay không? Hay cũng chỉ tình nguyện làm tay sai cho chúng?
Trên đây chỉ là một vài sự kiện cụ thể trong muôn vàn khó khăn mà những ai còn nặng lòng với quê hương phãi nghĩ đến khi muốn bắt tay nhau thực hiện cho được việc gì đó, khả dĩ đem lại lợi ích cho nước nhà. Quả thật là phức tạp, nhưng không phải vì trở ngại mà bỏ cuộc thì biết đến bao giờ mới có thể cùng nhau góp sức để tái thiết quê hương. Và làm sao để giải thích với con cháu về ý nghĩa của việc làm chúng ta, là hàng năm cứ họp nhau Giổ Quốc Tổ Hùng Vương. Chẳng lẽ chỉ đến lễ bái cho có lệ rồi lại buông tay ra về như những kẻ mê tín không hơn không kém.
Qua tổng hợp ý kiến của nhiều tầng lớp nhân sĩ và các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như các đoàn thể chính trị, chúng tôi nhận thấy con đường khả dĩ kết hợp được nhau để tái thiết quốc gia là con đường Trở về nguồn, phục hồi văn hóa Việt. Muốn phục Việt, trước hết phải là người Việt. Tiên quyết chúng ta phải cố tìm cách gìn giữ tinh túy của giòng Lạc Việt trước khi tiếp nhận và tinh lọc văn minh cùng những đổi mới của thời đại. Là người Việt mang huyết thống Rồng Tiên. Rồng thì uy vũ. “Phong Thái Uy Vũ Bất Năng Khuất”. Tiên lại hiền lành xinh đẹp.Với tinh thần đó thì dù đất nước có hưng thịnh hay suy vi, lòng chúng ta vẫn vững như bàn thạch, tâm vẫn không sờn, kiên trì hãy cùng nhau gạt đi những tị hiềm nhỏ nhặt, không chùn bước trước những khó khăn hiện tại, vì đây chỉ là những trở ngại nhỏ và tạm thời; với trạng huống khi đã cùng thì tất biến và biến tất thông. Chúng ta sẽû rút ra những kinh nghiệm quý giá để sử dụng trong tương lai. Hãy nhìn lại lịch sử, xem gương mười năm kháng chiến gian lao đưa đến thành công của vị anh hùng đất Lam Sơn cũng chỉ vì mục tiêu và chủ trương :
Đem đạo nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân mà thay cường bạo.
Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi đã xác định rõ ràng: Dùng đạo nghĩa là căn bản của nền văn hóa của giống Lạc Việt để xóa bỏ cái hung tàn và cường bạo của kẻ thù xâm lược phương Bắc. Người anh hùng áo vải đất Tây Sơn cũng đã phất mgọn cờ đào. Chỉ kiếm về phương Bắc mà xuất chinh. Cuộc chiến thắng thần tốc đại phá quân Thanh trong mùa Xuân Kỷ Dậu đã nói lên mục đích là đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi để phục hồi văn hóa Việt, vua Quang Trung nói:
Đánh cho để tóc dài
Đánh cho để đen răng
Đánh cho sử tri Nam quốc
Anh hùng chi hữu chủ
Với di chúc cách mạng của Nguyễn Trãi, và mục tiêu giải phóng đất nước để phục hồi văn hóa của Quang Trung thì con cháu các ngài không thể đi ngược lại bằng cách lấy cường bạo nầy để thay thế cho việc hung tàn khác. Do đó, không thể chấp nhận độc tài đảng trị của miền Bắc thay thế tư bản miền Nam, cũng như ngày nay khó có thể nói đến việc dùng bạo lực vũ khí để lật đổ chế độ CSVN hiện đang thống trị đất nước. Như vậy chỉ còn kế sách là phục hồi văn hóa Lạc Việt, may ra nhờ cùng chung truyền thống văn hoá chúng ta hy vọng xóa bỏ những dị biệt đang là bức tường kiên cố ngăn cách dân tộc.
Hiện nay tại hải ngoại đã có nhiều dấu chỉ đáng khen. Các cộng đồng các nơi đang cố gắng bằng cách phổ biến tinh thần dân tộc; với những lễ tổ chức long trọng các nghi thức truyền thống như Tết Nguyên Đán, lễ Giỗ Quốc Tổ, kỷ niệm Hai Bà Trưng, giỗ Hưng Đạo Vương, Lê Lợi, Quang Trung v.v.Ngoài ra còn các buổi ra mắt sách, bình thơ, trình diển áo dài . Những việc đó một phần nào hướng dẫn con em nhớ đến ccäi nguồn Lạc Việt. Với đà phát triển thế hệ trẻ, nhu cầu cung ứng của tuổi thanh xuân cần tìm hiểu cội nguồn văn hóa mỗi ngày một gia tăng. Ước mong các nhà lãnh đạo tinh thần, những đoàn thể chính trị và chính đảng quốc gia đấu tranh hãy cố gáng tích cực hơn trong công cuộc đóng góp cho sự nghiệp văn hóa dân tộc. Tất cả cho văn hóa Việt và để cùng nhau về nguồn, chúng ta xác nhận rằng:
Mất nước còn có cách lấy lại
Mất dân rất khó, nhưng cũng có cách thu phục
Nhưng một khi văn hóa đã mất, tức dân tộc tính không còn thì vô phương cứu chữa.
Văn Hóa Còn Dân Tộc Còn./
Phùng Ngọc Sa.
Từ ngàn xưa trên giải giang sơn gấm vóc Việt Nam, mỗi năm cứ đến độ xuân về, khi trăm hoa khoe sắc và chim muông ca hót thì tất cả con dân đất Việt khắp nơi, từ thành thị đến thôn quê, ai nấy đều quây quần với nhau tại những nơi trang nghiêm như đình chùa và nhà làng để làm lễ Giỗ Tổ. Quốc lịch gọi là lễ Hùng Vương. Lễ được ấn định vào ngày mồng l0 tháng 3 âm lịch. Đây là nghi lễ truyền thống để nhắc nhở con cháu nhớ đến cội nguồn dân tộc, tưởng nhớ đến công ơn các vị vua Hùng thuộc họ Hồng Bàng dựng nước. Chính nhờ các Ngài mà ngày nay con cháu mới có được một mảnh đất dung thân.
Xin nhắc lại, hai vị Khởi Tổ của dân tộcViệt đã sống vào thời khuyết sử nên các nhà sử học chỉ ghi chép lại đôi dòng về các vị Thủy tổ, trong đó có Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ sinh ra một bọc một trăm trứng và nở thành một trăm con; ngoài ra không nói rõ chi tiết sinh hoạt của các vị như thế nào. Với đà phát triển, lòng kính mến và biết ơn sâu xa đối với hai vị Khởi Tổ nên từ mấy ngàn năm trước, Tổ Tiên ta đã tôn hai Ngài thành Biểu Tượng Linh Thiêng là Tiên và Rồng. Dân Việt âu yếm gọi hai Ngài là Mẹ Tiên, Cha Rồng. Cho tới nay hồn thiêng của hai Ngài vẫn linh hiển và với sứ mệnh sinh sản cả một dân tộc đông đúc siêu vượt, hai Ngài là Tổ trên hết các Tổ của Tộc Việt.
Cùng với hai vị Khởi Tổ, nguồn gốc tộc Việt cũng được truyền thống văn hóa thăng hoa kết tinh thành chuyện Tiên Rồng và đã được truyền miệng một cách phổ quát cho toàn thể dân chúng suốt mấy ngàn năm qua: giống dân Việt khởi nguồn từ một ông Rồng nói với bà Tiên:”Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, nàng đem 50 con lên núi, ta đem 50 con xuống biển khi cần thì gọi nhau về.”-Từ đó dòng giống Việt mỗi ngày một phát triển, và theo đặc tính địa phương, chia thành nhiều nhánh.
Theo biễu tượng Bọc Trăm Con, các nhánh của Tộc Việt thường được gọi chung là Bách Việt. Một trong các nhánh đó là Lạc Việt. Với thời gian, một phần các nhánh Lạc Việt ở cực Nam thành lập quốc gia, nay là Việt Nam.
Theo quan niệm chung của dân tộc Việt, nước Việt Nam được thành lập do nhiều vị Quốc Tổ. Quốc Tổ không phải chỉ là vua đầu tiên, mà gồm có mười tám vị gọi là vua Hùng. Như vậy, quan niệm lập quốc của dân Việt nhấn mạnh đến sự thành hình của một dân tộc, một nền văn hóa hơn là thành lập một quốc gia theo nghĩa chính trị hiện nay.
Theo truyền thống cao quý nói trên nên không những trong nước, mà tại hải ngoại, giữa nơi đất khách quê người, bất cứ ở đâu, hàng năm chúng ta đều tổ chức lễ Giỗ Quốc Tổ để nhắc nhở và hướng dẫn con cháu luôn hướng về cội nguồn dân tộc.
Trước bàn thờ Tổ Quốc có linh vị của Quốc Tổ, trong không khí trang nghiêm cùng khói hương nghi ngút do con cháu thắp lên để tưởng nhớ đến các Ngài. Có thể nói đây là cơ hội thuận tiện và quý báu cho chúng ta dành đôi phút suy tư để nghĩ đến Quốc Gia Dân Tộc; tự xét lại trong cuộc đời mình đã làm, hay đóng góp được thêm gì cho gia tài quý giá của tiền nhân để lại. Bằng biết bao công lao khó nhọc, các Ngài đã kiến quốc, cứu quốc, mở mang bờ cỏi để lại cho con cháu hậu thế một giải giang sơn gấm vóc cùng với một nền đạo lý và văn hóa vững vàng mang tính chất của giòng giống Lạc Việt; chính nhờ vậy mà l0 thế kỷ dưới ách nô lệ của kẻ thù phương Bắc và gần non một thế kỷ bị thực dân Tây phương đàn áp, nhưng ngoại bang không thể làm sao đồng hóa nổi và cũng không thể phá hủy được truyền thống quý báu của giòng giống Lạc Việt.
Hãy tự hỏi, tất cả chúng ta đã làm được những gì để đóng góp thêm cho di sản thiêng liêng của tổ tiên để lại? Hay chúng ta chẳng những không bồi đắp mà còn nở lòng phá hoại?
Xét lại những trang sử cận đại, trong hơn nửa thế kỷ qua, trên mảnh đất Việt thân yêu mà các vị Quốc Tổ từng tốn bao công sức xây dựng đã trở thành bãi chiến trường loang máu do chính con cháu gây ra. Hãy đọc lại một vài câu thơ được lưu truyền trong dân gian mô tả nổi thống khổ của người dân bị đọa đầy bởi các thế lực đối kháng, kẹp giữa hai lằn đạn:
Chốn thành thị An ninh Bảo vệ
Miền thôn quê Tự vệ Công an
Bốn bề Vệ Bảo Ninh An
Dân càng chết kẹt, chết oan, chết phiền.
Hoặc:
Nhiều gia quyến hai bên mắc nghẹt
Kẻ bên nầy người kẹt bên kia
Anh em cha chú phân ly
Chồng xa vợ mọn mẹ lìa con thơ.
Miệng lưởi của người cộng sản thường rêu rao “Tình ruột thịt nghĩa đồng bào”nhưng khi có được lợi thế nhờ mưu mô xảo quyệt, nhờ được sự hổ trợ của Cộng Sản Quốc Tế thì bọn chúng lại đưa dân tộc vào cảnh hủy diệt tương tàn và bọn chúng đã thẳng tay đàn áp đồng bào bằng những thủ đoạn độc ác nhứt trong lịch sử dân tộc cũng như lịch sử nhân loại.
Bạo quyền Hà Nội sẽ nói thế nào trước vong linh của Quốc Tổ về những thủ đoạn đê hèn mà chúng đã dùng để thủ tiêu và tận diệt những tinh hoa của đất nước; những người đã từng đồng lao cộng khổ với chúng trong cuộc đấu tranh dành lại độc lập cho quê hương từ tay thực dân Pháp? Thử hỏi, biết đến mấy thế hệ nữa Việt Nam mới có được những nhân tài đầy lòng ái quốc, biết dùng mối đạo để phục vụ quốc gia như Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ; một lãnh tụ Lê Ninh (tự Lê Khang ) của Việt Nam Quốc Dân Đảng tài ba thao lược, nhiều kinh nghiệm chiến đấu và tài tổ chức, kế thừa truyền thống của người anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học; hoặc như lãnh tụ Lý Đông A ( tức Nguyễn Hữu Thanh) của Đại Việt Duy Dân, tuổi trẻ tài cao, uyên thâm bác học. Với tư chất thông minh thiên phú, ông ta đã lý giải sự việc một cách rất nhanh chóng chỉ một khoản khắc ngắn, trong khi mà các nhà khoa bảng thời danh khác phải mất hàng tháng mới làm nồi. Sau cùng là sự kiện của ông Trương Tửû Anh, Đảng Trưởng Đại Việt Quốc Dân Đảng, từ 22 tuồi, ông đã nghiên cứu tạo lập chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn thích hợp cho dân Việt và đã trở thành sấm ngữ khi thực tế chứng minh cho lời tiên đoán về sự sụp đổ của chủ nghĩa Duy Vật Biện Chứng Pháp của Cộng Sản Quốc Tế. Chính chủ thuyết của ông là kim chỉ nam của Đại Việt Quốc Dân Đảng trong sự nghiệp đấu tranh dành độc lập cho quốc gia. Khi mới được 25 tuổi, nhà lãnh tụ tài ba nầy đã được hai đảng cách mạng tiền phong là Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng bầu làm chủ tịch của Mặt Trận Quốc Dân Đảng để chống lại Mặt Trận Việt Minh Cộng Sản.
Tất cả những thiên tài ái quốc và lổi lạc nói trên đã bị bọn Cộng Sản Việt Nam ám hại chỉ vì quyền lợi của Cộng Sản quốc tế.
Sau khi nhờ được yểm trợ tối đa của cộng sản quốc tế chiếm được nửa nước, bọn CSVN đã tiến sâu vào con đường tội ác. Với chủ trương cải cách ruộng đất, bọn chúng đã làm đảo lộn luân thường đạo lý, và truyền thống của dân tộc Việt; chúng bày ra cảnh đấu tố, dậy con tố cha, vợ tố chồng, chỉ đạo giai cấp đấu tranh, chia để trị và dể bề bóc lột. Tới khi lợi dụng được thời cơ đánh chiếm được miền Nam, người cộng sản lại tiến hành hủy diệt văn hóa và trí thức bằng chính sách cải tạo, tịch thu sách vở, biến những người làm văn hóa trở thành những lợi khí nô dịch.. Do đó, chỉ mới hơn vài thập niên đàn áp, cộng sản đã làm thoái hoá cả một thế hệ con dân của Mẹ Việt Nam.
Hiện những người cộng sản đang tiếp tục phá hoại sự nghiệp của Tiền Nhân bằng cách bán đất nhường biển cho kẻ thù phương Bắc; khốn nạn hơn, buôn bán đàn bà và trẻ em cho ngoại nhân để làm nô lệ tình dục. Bọn người man rợ cộng sản sau khi bị đồng bào trong nước và hãi ngoại đồng loạt lên án về tội ác bán nước buôn dân, bèn tìm cách đánh lận con đen bằng cách nâng ngày Giỗ Quốc Tổ lên hàng “quốc lễ”, ngụ ý là bọn họ vẫn tôn thờ Quốc Tổ. Qủa thật đây là một lối phỉnh gạt trắng trợn. Lý do, CSVN làm gì có tổ quốc. Với họ, tổ quốc đồng nghĩa với xã hội chủ nghĩa. Vì “yêu Tổ Quốc là yêu Xả Hội Chủ Nghĩa”Tổ quốc của Cộâng Sản Việt Nam là Liên Xô. Và tổ tiên của bọn họ là Mác, Lê Nin và Mao. Nay Liên xô đã không còn thì CSVN quay sang sùng bái Trung Cộng và những tay đầu sỏ tại Trung-Nam-Hải.
Người cộng sản thì phá hoại như thế thế còn người Việt Quốc gia đã đóng góp gì cho đất nước? Cộng đồng người Việt hải ngoại trên ba triệu người, kẻ trước người sau bỏ nước ra đi sau ngày 30 tháng 4 đã cống hiến được gì cho quê hương ?
Hãy trung thực, và can đảm kiểm điểm lại, chúng ta chỉ thấy được một ít kết quả quá ư là khiêm nhượng. Có nhiều người cho rằng 30-4 là ngày Quốc Hận để ghi nhớ biến cố tang thương khiến người dân Việt miền Nam phải từ bỏ quê cha đất tổ ra đi lánh nạn cộng sản. Những cũng từ sự bất hạnh nầy, đã có biết bao kẻ may mắn được công thành danh toại ở xứ người. Đã có biết bao thanh niênViệt đã may mắn học được cái hay và những kỷ thuật tân tiến của ngoại quốc, đổ đạt hiển hách, thành công vược bực trên hai phương diện kiến thức cũng như tài chánh. Họ thích được đánh bóng là người vẻ vang dân Việt . Nhưng trong đó chẳng ai nghe nói đến những gì họ đóng góp cho quê hương về các thành quả mà họ đã gặt hái được.
Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Trước sau một phần lỗi lớn cũng bởi tại chúng ta gây nên. Cho đến giờ phút nầy, vẫn chưa thấy người Việt hải ngoại cụ thể đóng góp được gì khả dĩ cùng nhân dân trong nước sớm hóa giải được quyền lực cộng sản để tái thiết quốc gia. Nguyên nhân và lý do chính, là chúng ta chỉ thích đóng kịch, làm giả nhiều hơn thiệt. Ngoài ra còn cái nạn phân hóa trầm trọng. Có thể nói chính đây là căn bệnh trầm kha của người Việt quốc gia, và chính nó là nguyên nhân làm cho miền Nam bị sụp đổ và chính đó là một trở ngại lớn trong việc phục hưng đất nước.
Phải hãnh diện mà nói là trong lịch sử ngôn ngữ của văn minh nhân loại, chỉ có dân Việt Nam mới tự hào dùng chữ Đồng Bào để gọi nhau,(vì chung một bào thai của mẹ Việt) tượng trưng cho tinh thần Đoàn Kết. Quốc Tổ vì sự nghiệp mở mang bờ cõi mới phải chia nhau, người lên núi kẻ xuống biển, ra đi khắp bốn phương tám hướng nhưng Ngài quyết định để người Trưởng Nam ở lại làm vua, tiếp tục nắm giữ giếng mối quốc gia tượng trưng cho việc thống nhất đất nước. Quốc Tổ vì sự nghiệp quốc gia đã hành động như thế, trong khi đó con cháu của Ngài thì làm trái ngược lại.
Trong nước thì bọn CSVN càng ngày càng gian ác, nhất quyết trị dân bằng bạo lực; hàng ngũ đối kháng đã thấy được họa diệt vong những chưa có khả năng kết tụ được. Kẻ ra đi, khi đã may mắn đến bờ tự do thì chia năm xẻ bảy, phân hóa trầm trọng chỉ vì không san bằng được dị biệt. Thật ra dị biệt đâu có gì là sai quấy, trong sinh hoạt, sai quấy là thái độ tương quan của dị biệt. Thay vì phải coi dị biệt như là những yếu tố làm thêm phong phú cho văn hóa, thêm vị tươi và sống động cho cuộc sống mà không gây trở ngại cho sự thuần nhất quốc gia. Oái ăm thay, ở đây đồng bào chúng ta lại xem dị biệt như là bức tường kiên cố ngăn chận cá nhân nầy với cá nhân khác, tập thể nầy với tập thể khác để đến nổi đưa đến tình trạng rả rời và tan nát. Cũng vì nguyên nhân nói trên mà từ trước đến nay, hải ngoại chưa bao giờ kết tụ nổi thành một khối khả dĩ tạo thành được một cái lực đáng kể và cần thiết trong việc tranh đấu cho mục tiêu chung. Tất cả mọi người ai cũng biết đến điều đó, từ trước đến nay đã có biết bao cố gắng và biết bao nhiêu lần tìm cách tập họp nhưng cũng đã bấy nhiêu tan vở, và mỉa mai thay, những nơi tập họp lại chính là những chốn mà hiện tượng phân hóa dể dàng xuất hiện nhất. Và, ai cũng kêu gọi đoàn kết, nhưng là đoàn kết sau lưng họ chứ không phải để có sức mạnh.
Tại sao, vì nguyên nhân nào? Xin thưa là tại cái tôi trong chúng ta quá lớn, đó là chưa kể những yếu tố khác làm trì trệ, như đầu óc kiêu căng đố kỵ, lòng vị kỷ và tệ hơn nữa là tinh thần ganh tỵ với những ai tỏ ra có khả năng hơn mình, chỉ vì bản tính tự cho mình là cái rốn của vũ trụ. Lý do đó mới dẫn đến việc lạm phát hội đoàn, đảng phái. Trong cộng đồng chẳng ai bảo được ai vì thế mới có tình trạng thừa lãnh tụ nhưng lại thiếu lãnh đạo. Hãy can đảm để nhìn nhận sự thật, đừng nghĩ chi đến việc so sánh với những cộng đồng dân tộc nổi tiếng như Do Thái, Cuba, ngay đến những cộng đồng nhỏ của các nước lân bang với Việt Nam như Lào, Cam Bốt, trong sinh hoạt người Việt hải ngoại chưa có sự gắn bó như họ đã làm được. Với tình trạng yếu kém nầy, hải ngoại làm sao có thể áp lực để Cộng Sản Việt Nam từ bỏ quyền lực.
Lịch sử là một tấn kịch được tái diễn không ngừng. Chúng ta mấy ai ngờ đế quốc cộng sản lại sụp đổ mau chóng như vậy. Giả dụ một ngày nào đó, CSVN thấy là không thể nào tiếp tục đường lối độc tài đảng trị được bèn nghĩ đến chuyện mời những người trong nước cũng như hải ngoại cùng chung lo việc tái thiết quốc gia. (Đây chỉ là giả thiết, vì VC có bao giờ chia quyền cho ai; ngược lại hải ngoại biết đến khi nào mới đủ lực để nói chuyện với nó). Thử hỏi, liệu những ai và đoàn thể nào dám nhận trọng trách lịch sử đó? Dám hỏi những vị khoa bảng đã từng được đào tạo trong nếp sống văn minh, hưởng thụ vật chất Tây phương, có thể hy sinh trở về phục vụ quốc gia trong một tình trạng bán khai như Việt Nam hiện nay hay không? Hay cũng chỉ tình nguyện làm tay sai cho chúng?
Trên đây chỉ là một vài sự kiện cụ thể trong muôn vàn khó khăn mà những ai còn nặng lòng với quê hương phãi nghĩ đến khi muốn bắt tay nhau thực hiện cho được việc gì đó, khả dĩ đem lại lợi ích cho nước nhà. Quả thật là phức tạp, nhưng không phải vì trở ngại mà bỏ cuộc thì biết đến bao giờ mới có thể cùng nhau góp sức để tái thiết quê hương. Và làm sao để giải thích với con cháu về ý nghĩa của việc làm chúng ta, là hàng năm cứ họp nhau Giổ Quốc Tổ Hùng Vương. Chẳng lẽ chỉ đến lễ bái cho có lệ rồi lại buông tay ra về như những kẻ mê tín không hơn không kém.
Qua tổng hợp ý kiến của nhiều tầng lớp nhân sĩ và các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như các đoàn thể chính trị, chúng tôi nhận thấy con đường khả dĩ kết hợp được nhau để tái thiết quốc gia là con đường Trở về nguồn, phục hồi văn hóa Việt. Muốn phục Việt, trước hết phải là người Việt. Tiên quyết chúng ta phải cố tìm cách gìn giữ tinh túy của giòng Lạc Việt trước khi tiếp nhận và tinh lọc văn minh cùng những đổi mới của thời đại. Là người Việt mang huyết thống Rồng Tiên. Rồng thì uy vũ. “Phong Thái Uy Vũ Bất Năng Khuất”. Tiên lại hiền lành xinh đẹp.Với tinh thần đó thì dù đất nước có hưng thịnh hay suy vi, lòng chúng ta vẫn vững như bàn thạch, tâm vẫn không sờn, kiên trì hãy cùng nhau gạt đi những tị hiềm nhỏ nhặt, không chùn bước trước những khó khăn hiện tại, vì đây chỉ là những trở ngại nhỏ và tạm thời; với trạng huống khi đã cùng thì tất biến và biến tất thông. Chúng ta sẽû rút ra những kinh nghiệm quý giá để sử dụng trong tương lai. Hãy nhìn lại lịch sử, xem gương mười năm kháng chiến gian lao đưa đến thành công của vị anh hùng đất Lam Sơn cũng chỉ vì mục tiêu và chủ trương :
Đem đạo nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân mà thay cường bạo.
Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi đã xác định rõ ràng: Dùng đạo nghĩa là căn bản của nền văn hóa của giống Lạc Việt để xóa bỏ cái hung tàn và cường bạo của kẻ thù xâm lược phương Bắc. Người anh hùng áo vải đất Tây Sơn cũng đã phất mgọn cờ đào. Chỉ kiếm về phương Bắc mà xuất chinh. Cuộc chiến thắng thần tốc đại phá quân Thanh trong mùa Xuân Kỷ Dậu đã nói lên mục đích là đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi để phục hồi văn hóa Việt, vua Quang Trung nói:
Đánh cho để tóc dài
Đánh cho để đen răng
Đánh cho sử tri Nam quốc
Anh hùng chi hữu chủ
Với di chúc cách mạng của Nguyễn Trãi, và mục tiêu giải phóng đất nước để phục hồi văn hóa của Quang Trung thì con cháu các ngài không thể đi ngược lại bằng cách lấy cường bạo nầy để thay thế cho việc hung tàn khác. Do đó, không thể chấp nhận độc tài đảng trị của miền Bắc thay thế tư bản miền Nam, cũng như ngày nay khó có thể nói đến việc dùng bạo lực vũ khí để lật đổ chế độ CSVN hiện đang thống trị đất nước. Như vậy chỉ còn kế sách là phục hồi văn hóa Lạc Việt, may ra nhờ cùng chung truyền thống văn hoá chúng ta hy vọng xóa bỏ những dị biệt đang là bức tường kiên cố ngăn cách dân tộc.
Hiện nay tại hải ngoại đã có nhiều dấu chỉ đáng khen. Các cộng đồng các nơi đang cố gắng bằng cách phổ biến tinh thần dân tộc; với những lễ tổ chức long trọng các nghi thức truyền thống như Tết Nguyên Đán, lễ Giỗ Quốc Tổ, kỷ niệm Hai Bà Trưng, giỗ Hưng Đạo Vương, Lê Lợi, Quang Trung v.v.Ngoài ra còn các buổi ra mắt sách, bình thơ, trình diển áo dài . Những việc đó một phần nào hướng dẫn con em nhớ đến ccäi nguồn Lạc Việt. Với đà phát triển thế hệ trẻ, nhu cầu cung ứng của tuổi thanh xuân cần tìm hiểu cội nguồn văn hóa mỗi ngày một gia tăng. Ước mong các nhà lãnh đạo tinh thần, những đoàn thể chính trị và chính đảng quốc gia đấu tranh hãy cố gáng tích cực hơn trong công cuộc đóng góp cho sự nghiệp văn hóa dân tộc. Tất cả cho văn hóa Việt và để cùng nhau về nguồn, chúng ta xác nhận rằng:
Mất nước còn có cách lấy lại
Mất dân rất khó, nhưng cũng có cách thu phục
Nhưng một khi văn hóa đã mất, tức dân tộc tính không còn thì vô phương cứu chữa.
Văn Hóa Còn Dân Tộc Còn./
Phùng Ngọc Sa.
Hội đồng Nhân quyền LHQ lần thứ 10 ở Genève : Ông Võ Văn Ái tố cáo Việt Nam không tuân thủ các Công ước Nhân quyền LHQ
Các cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ độc tài bao giờ cũng do sinh viên và tri thức dẫn đầu; công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động khác chỉ là sức mạnh cơ bắp.
GENÈVE, ngày 23.3.2009 (QUÊ MẸ) - Hôm nay tại khóa họp Hội đồng Nhân quyền LHQ lần thứ 10, nhân danh Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam và Quê Mẹ : Hành động cho Dân chủ Việt Nam, Ông Võ Văn Ái lên tiếng tố cáo nhà cầm quyền Hà Nội “vi phạm nghiêm trọng nhân quyền tại Việt Nam và thường xuyên không tuân thủ các nghĩa vụ quốc tế”. Nhắc lại rằng Việt Nam ký kết Công ước Quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị từ năm 1982, ông Ái tuyên bố rằng : “Chính sách Nhà nước Việt Nam không do các thiết chế quốc gia hoạch định (chính phủ hay quốc hội), mà mọi sự do Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định” và rằng “Đảng Cộng sản bất cần mọi cam kết với thế giới”.
Điện Quốc liên, nơi Hội đồng Nhân quyền LHQ đang họp khóa thứ 10 từ ngày 2.3 đến 27.3.2009
Qua lời phát biểu, ông Võ Văn Ái nêu lên những phương pháp đàn áp cơ bản dựa vào sự kềm kẹp quần chúng thông qua ba mũi vây bọc “Công an khu vực thám sát từng cá nhân, Hộ khẩu mà không có nó con người trở thành bất hợp pháp, và Lý lịch quy định quá trình chính trị người công dân”. Ba gọng kìm thường trực này là sức ép kinh hồn đè lên thân phận những người bất đồng chính kiến (nguyên nhân mất việc làm, con cái không được đi học, sách nhiễu, v.v…) làm cho họ mất tinh thần.
Chính sách chung là bóp nghẹt mọi tư tưởng bất đồng với đảng và nhà nước. Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, vị lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, bị giam cầm hơn 26 năm và hiện bị quản thúc tại ngôi chùa của ngài ở Saigon, các luật gia Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân bị xử án 4 và 3 năm tù vì mở những khóa học về nhân quyền; hay người chủ Blog Điếu Cày bị tuyên án 30 tháng tù vì viết những bài đòi hỏi cải cách dân chủ; giam cầm hoặc thu hồi thẻ làm báo của các ký giả phát hiện những sự việc “nhạy cảm”.
Nhà cầm quyền còn đàn áp phong trào nông dân khiếu kiện gọi là Dân Oan chống lại việc cán bộ cướp đất đai, tài sản, hay đàn áp công nhân đình công đòi hỏi cải thiện đời sống và tiền lương vào lúc giá gạo tăng vọt 72% trong vòng một năm, hoặc đàn áp các cuộc biểu tình sinh viên và dân chúng chống việc mất đất, mất hai quần đảo Hoàng sa, Trường sa vào tay Trung quốc.
Ông Võ Văn Ái nêu lên trường hợp của các người tham gia biểu tình, như Phạm Văn Trội, Phạm Thanh Nghiên, Vũ Hùng, Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Văn Túc, Ngô Quỳnh… bị bắt từ tháng 8.2008 nay còn bị giam giữ không xét xử.
Đảng và Nhà nước còn sử dụng các “đạo luật gian ác” để dập tắt mọi sự phản kháng hay bất đồng chính kiến. Những đạo luật hủy bỏ các quyền được bảo đảm trong Công ước Quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị hay trong Hiến pháp Việt Nam : các đạo luật về “an ninh quốc gia”, nghị định 38/2005 cấm biểu tình, chỉ thị chống đình công (những ai đình công phải trả 3 tháng lương cho chủ …), Pháp lệnh số 44 năm 2002 quản chế tại gia người công dân hoặc đưa vào nhà thương điên mà không thông qua sự xét xử tại tòa án, cũng như những đạo luật vừa công bố hạn chế trên lĩnh vực báo chí và Internet (như Thông tư 07/2008/TT-BTTT hạn chế việc thiết lập blog).
Tại LHQ ở Genève, ông Võ Văn Ái lên tiếng tố cáo Hà Nội không tuân thủ các Công ước Nhân quyền LHQ, vi phạm nhân quyền trầm trọng, gây đại nạn sinh thái Tây nguyên vì mỏ bauxite
Ông Võ Văn Ái cũng tố cáo dự án Trung Việt lên tới 500 triệu Mỹ kim nhằm khai thác quặng bauxite ở Tây nguyên có nguy cơ gây “đại nạn sinh thái”, phá hủy “rừng, đất đai trồng trọt, thải ra hằng núi bùn độc” và làm hại đời sống của các dân tộc ít người. Mặc những lời báo động của các chuyên gia, những kiến nghị của dân cư địa phương, đặc biệt Thư ngỏ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu sách đánh giá lại việc quy hoạch khai thác bauxite trên Tây nguyên, Nhà cầm quyền vẫn cho khởi sự việc khai thác quặng bauxite với sự có mặt của hàng nghìn công nhân Trung quốc.
Đứng trước hiện trạng vi phạm nhân quyền trầm trọng, ông Võ Văn Ái yêu cầu Hội đồng Nhân quyền gây sức ép để nhà cầm quyền Việt Nam chấp nhận thường trực việc các “Báo cáo viên LHQ đặc nhiệm bảo vệ những người đấu tranh cho nhân quyền, đặc nhiệm tự do ngôn luận và tự do tôn giáo viếng thăm Việt Nam”.
Tài liệu tuyệt mật của Đảng Cộng sản nhằm đàn áp nhân quyền và dân chủ được công bố tại Điện Quốc liên, Genève
Tại cuộc Hội luận về tình hình Châu Á tổ chức ở Điện Quốc liên, Genève, ông Võ Văn Ái tiết lộ một “Tài liệu tuyệt mật” của đảng Cộng sản Việt Nam trong việc nuôi dưỡng sợ hãi để đàn áp dân lành nhằm củng cố quyền lực đảng ít nhất “trong 20 năm tới”. Tài liệu này phát xuất từ một cuộc họp kín ngày 10.7.2008. “Tài liệu cho thấy những phương pháp đàn áp được quy hoạch quy mô. Mọi cuộc khủng bố nhiều năm qua chống lại các quyền tự do cơ bản xác minh cho chính sách trắng trợn và vô nhân đạo được trình bày chi tiết qua tài liệu”.
Mục tiêu của Đảng nhằm “duy trì tuyệt đối nỗi sợ hãi dù mơ hồ trong tiềm thức – nhưng đồng thời cũng không để cho nhân dân cảm thấy tuyệt vọng, để dân chúng không bao giờ có đủ ý chí mà nổi loạn”, bởi vì “một người bất mãn cực độ là một người nguy hiểm cho chế độ”.
Tuy nhiên tài liệu viết “Phải làm sao để chúng ta vẫn trấn áp được đối lập dân chủ, nhưng vẫn không làm sức mẻ quan hệ ngoại giao đang ngày càng một tốt hơn với Hoa Kỳ và phương Tây”. Do vậy mà Đảng chỉ thị hình thành những nhóm “dân chủ giả hiệu” để cho ngưỡng vọng dân chủ của quần chúng không kết tụ thành phong trào tranh đấu thực sự.
Tài liệu tuyệt mật này lý luận rằng “Hai phạm trù “dân chủ” và “phát triển” có quan hệ hết sức phức tạp, phi tuyến, chứ không phải là quan hệ nhân - quả. Nghiên cứu kỹ thuật về vấn đề này sẽ rất có lợi cho chúng ta trong việc chủ động phát triển kinh tế mà không cần phải “dân chủ hoá””. Đồng thời nhận thức rằng “Các cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ độc tài bao giờ cũng do sinh viên và tri thức dẫn đầu; công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động khác chỉ là sức mạnh cơ bắp. Chỉ có trí thức và sinh viên mới đủ lý luận để huy động được đông đảo quần chúng, mới có lý tưởng để dấn thân, và mới có khả năng tổ chức và phối hợp”. Vì vậy phải “triệt tiêu được những phong trào sinh viên, cô lập được những trí thức phản kháng, chính là đánh vào đầu não chỉ huy của địch. Những thứ còn lại như “dân oan biểu tình”, “công nhân đình công”…chỉ là cơ bắp của một cơ thể đã bị liệt não”.
Chính vì vậy mà tài liệu đưa ra nhận xét bất ngờ, rằng “Chúng ta đã thành công trong việc làm cho sinh viên trở nên lãnh cảm về các loại ý thức hệ, thờ ơ với những tư tưởng tự do khai phóng từ phương Tây. Chúng ta chỉ còn phải đối phó với tinh thần dân tộc của sinh viên đang có nguy cơ thức dậy, mục đích là để nó ngủ yên, nếu không phải lèo lái nó theo hướng có lợi cho chúng ta”.
Nhằm thực hiện nhận xét trên, Đảng chỉ thị “Phải làm sao để nó chỉ là hoạt động manh mún, rời rạc, tự phát của các cá nhân đơn lẻ; làm cho có nhiều “lãnh tụ” mà ít hoặc không có quần chúng; có nhiều “nhân sĩ trí thức” mà ít hoặc không có một tổ chức nào có thực lực; có nhiêù những hoạt động lãng mạn hời hợi có tính phô trươn – mà người dân có biết đến cũng chỉ mỉm cười ý nhị – chứ ít hoặc không có những hoạt động thiết thực có tầm mức ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội; có thật nhiều những hoạt động “chống cộng cực đoan” có tính chất phá hoạt từ bên trong, gây phản cảm đối với người dân lao động, thậm chí làm cho những gia đình cách mạng và đội ngũ cựu chiến binh phẫn nộ”. Đồng thời với việc “Phải chủ động trong việc mở rộng xã hội dân sự, thuần phục và trung hoà giai cấp trung lưu đang lớn mạnh. Làm sao để trong mỗi tổ chức dân sự đều có chân rết của ta. Các tổ chức trung gian như Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Hội phụ nữ, các Hội cựu chiến binh, các Câu lạc bộ hưu trí… phải phát huy vai trò tối đa trong việc trung hoà những nhân tố nguy hiểm, điều hoà những xung đột nếu có giữa nhà nước và xã hội, giảm thiểu sự bất mãn của dân chúng… Làm sao để xã hội dân sự vẫn được mở rộng nhưng theo hướng có kiểm soát của chúng ta, chứ không trở thành mối đe doạ”. (…) “Phải giữ cho cái gọi là: “phong trào dân chủ đối lập” không thể trở thành phong trào đúng nghĩa, không thể bén rễ và lan rộng”.
Đánh giá giới trí thức, Đảng nhận định rằng “Đối với tầng lớp trí thức, những biện pháp “vừa trấn áp vừa vuốt ve” từ xưa đến nay đã đem lại kết quả khả quan. Chúng ta đã duy trì được một tầng lớp trí thức hèn nhát, háo danh, và nếu không quá ngu dốt thiển cận thì cũng chỉ được trang bị bởi những kiến thức chắp vá, hổ lốn, lỗi thời. Nói chung, đa số trí thức của chúng ta đều hèn, đều biết phục tùng theo đúng tinh thần “phò chính thống” của sĩ phu xưa nay. Phần lớn những kẻ được coi là trí thức cũng mang nặng cái mặc cảm của việc học không đến nơi đến chốn, ít có khả năng sáng tạo, và so với trí thức phương Tây về cả tri thức lẫn dũng khí đều cách xa một trời một vực.
“Trí thức của chúng ta vẫn mãi mãi giữ thân phận học trò, kiểu sĩ hoạn mơ ước được phò minh chủ, hanh thông trên đường hoạn lộ, chứ không bao giờ vươn lên thành những nhà tư tưởng lỗi lạc. Tầm mức ảnh hưởng của trí thức đến xã hội không đáng kể, không dành được sự kính trọng từ các tầng lớp nhân dân, thậm chí còn bị người đời khinh bỉ bởi sự vô liêm sỉ và thói quen ném rác vào mặt nhau.
“Chỉ có một số ít trí thức vượt qua được cái vỏ ốc hèn nhát, nhưng thường là quá đà trở nên kiêu ngạo tự mãn, coi mình như núi cao sông sâu, là lương tâm thời đại. Những người này quả thật có dũng khí, nhưng cũng không đáng sợ lắm bởi đa phần đều có tâm mà không có tài, có đởm lược mà ít kiến thức. Đa phần trong số này cũng chỉ đến khi về hưu mới thu gom được dũng khí mà ra mặt đối đầu với chúng ta, do đó sức cũng đã tàn, lực cũng đã kiệt.
“Một số ít trẻ trung hơn, nhiệt huyết còn phương cương, thì lại chưa có kinh nghiệm trường đời, chưa được trang bị lý luận chu đáo, chưa có kiến thức về dân chủ sâu rộng. Với những kẻ này chúng ta đàn áp không nương tay, bỏ tù từ 3 đến 7 năm. Đó là phương cách giết gà từ trong trứng. Thử tượng xem một tài năng trẻ phải chui chột những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời trong lao tù, cách ly với môi trương học vấn, gặm nhấm nỗi cô đơn thay cho việc học hành nghiên cứu, thì sao có thể phát triển hết khả năng? Khi ra tù thì cũng đã quá tuổi trung niên, mệt mỏi, chán chường. Nếu vẫn còn dũng khí thì cũng đã tụt hậu về kiến thức, bị trì néo bởi gánh nặng gia đình, còn làm gì được nữa?”
“Kiểm điểm thường kỳ toàn thế giới” về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam, Phúc trình của Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam được LHQ trích dẫn
Cuộc họp Hội đồng Nhân quyền LHQ lần thứ 10 sẽ chấm dứt vào ngày 27.3 tới. Nhưng sang đầu tháng 5 sẽ có phiên Hội đồng Nhân quyền LHQ nghe Hà Nội phúc trình tình trạng nhân quyền tại Việt Nam theo thể thức mới mỗi 4 năm một lần gọi là “Kiểm điểm thường kỳ toàn thế giới” (UPR, Universal Perodic Review).
Tại cuộc kiểm điểm này, Hội đồng Nhân quyền LHQ và các quốc gia thành viên sẽ nghe ba bản phúc trình. Một của Việt Nam Cộng sản về việc thực thi các Công ước Nhân quyền LHQ tại Việt Nam. Phúc trình thứ hai do Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ tóm gọn tất cả những khiếu nại hay tố cáo của các tổ chức Phi chính phủ về những vi phạm nhân quyền tại Việt Nam (tài liệu tham chiếu A/HRC/WG.6/5/VNM/3 - 23 February 2009). Xin vào xem trên Trang nhà LHQ: A_HRC_WG6_5_VNM_3_E.pdf hoặc trên Trang nhà Quê Mẹ A_HRC_WG6_5_VNM_3_E.pdf). Phúc trình thứ ba do các cơ cấu LHQ liên quan đến quyền con người thông qua các phúc trình đệ nạp tại LHQ về những vi phạm nhân quyền tại Việt Nam trên các lĩnh vực xã hội, dân sự, tôn giáo, phụ nữ, trẻ em, v.v… (tài liệu tham chiếu A/HRC/WG.6/5/VNM/2 - 19 February 2009).
Ngoại trừ phúc trình của Hà Nội sẽ được đọc tại buổi họp đầu tháng 5 tới. Trên trang nhà LHQ đã cho đăng tải 2 phúc trình nói trên cùng những phúc trình của các tổ chức Phi chính phủ nhân dịp “Kiểm điểm thường kỳ toàn thế giới” về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam. Nhìn chung thì bản Phúc trình của Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam (VCHR) và Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền (FIDH) được đặc biệt quan tâm và trích dẫn rất nhiều để chất vấn Hà Nội.
Bản Báo cáo của ông Võ Văn Ái đệ trình Ủy ban Xóa bỏ mọi Hình thức Phân biệt đối xử với Phụ nữ (CEDAW) diễn ra tại trụ sở LHQ ở Nữu Ước ngày 15.1.2007 nói lên sự phân biệt đối xử người phụ nữ Việt, nạn buôn bán phụ nữ cùng những xúc phạm Quyền phụ nữ, phản bác bản Phúc trình của Phái đoàn Hà Nội, đã được trích dẫn để đối chất với Hà Nội vào đầu tháng 5 tới. Trường hợp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng được lưu tâm qua các bản phúc trình chất vấn của LHQ.
GENÈVE, ngày 23.3.2009 (QUÊ MẸ) - Hôm nay tại khóa họp Hội đồng Nhân quyền LHQ lần thứ 10, nhân danh Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam và Quê Mẹ : Hành động cho Dân chủ Việt Nam, Ông Võ Văn Ái lên tiếng tố cáo nhà cầm quyền Hà Nội “vi phạm nghiêm trọng nhân quyền tại Việt Nam và thường xuyên không tuân thủ các nghĩa vụ quốc tế”. Nhắc lại rằng Việt Nam ký kết Công ước Quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị từ năm 1982, ông Ái tuyên bố rằng : “Chính sách Nhà nước Việt Nam không do các thiết chế quốc gia hoạch định (chính phủ hay quốc hội), mà mọi sự do Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định” và rằng “Đảng Cộng sản bất cần mọi cam kết với thế giới”.
Điện Quốc liên, nơi Hội đồng Nhân quyền LHQ đang họp khóa thứ 10 từ ngày 2.3 đến 27.3.2009
Qua lời phát biểu, ông Võ Văn Ái nêu lên những phương pháp đàn áp cơ bản dựa vào sự kềm kẹp quần chúng thông qua ba mũi vây bọc “Công an khu vực thám sát từng cá nhân, Hộ khẩu mà không có nó con người trở thành bất hợp pháp, và Lý lịch quy định quá trình chính trị người công dân”. Ba gọng kìm thường trực này là sức ép kinh hồn đè lên thân phận những người bất đồng chính kiến (nguyên nhân mất việc làm, con cái không được đi học, sách nhiễu, v.v…) làm cho họ mất tinh thần.
Chính sách chung là bóp nghẹt mọi tư tưởng bất đồng với đảng và nhà nước. Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, vị lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, bị giam cầm hơn 26 năm và hiện bị quản thúc tại ngôi chùa của ngài ở Saigon, các luật gia Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân bị xử án 4 và 3 năm tù vì mở những khóa học về nhân quyền; hay người chủ Blog Điếu Cày bị tuyên án 30 tháng tù vì viết những bài đòi hỏi cải cách dân chủ; giam cầm hoặc thu hồi thẻ làm báo của các ký giả phát hiện những sự việc “nhạy cảm”.
Nhà cầm quyền còn đàn áp phong trào nông dân khiếu kiện gọi là Dân Oan chống lại việc cán bộ cướp đất đai, tài sản, hay đàn áp công nhân đình công đòi hỏi cải thiện đời sống và tiền lương vào lúc giá gạo tăng vọt 72% trong vòng một năm, hoặc đàn áp các cuộc biểu tình sinh viên và dân chúng chống việc mất đất, mất hai quần đảo Hoàng sa, Trường sa vào tay Trung quốc.
Ông Võ Văn Ái nêu lên trường hợp của các người tham gia biểu tình, như Phạm Văn Trội, Phạm Thanh Nghiên, Vũ Hùng, Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Văn Túc, Ngô Quỳnh… bị bắt từ tháng 8.2008 nay còn bị giam giữ không xét xử.
Đảng và Nhà nước còn sử dụng các “đạo luật gian ác” để dập tắt mọi sự phản kháng hay bất đồng chính kiến. Những đạo luật hủy bỏ các quyền được bảo đảm trong Công ước Quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị hay trong Hiến pháp Việt Nam : các đạo luật về “an ninh quốc gia”, nghị định 38/2005 cấm biểu tình, chỉ thị chống đình công (những ai đình công phải trả 3 tháng lương cho chủ …), Pháp lệnh số 44 năm 2002 quản chế tại gia người công dân hoặc đưa vào nhà thương điên mà không thông qua sự xét xử tại tòa án, cũng như những đạo luật vừa công bố hạn chế trên lĩnh vực báo chí và Internet (như Thông tư 07/2008/TT-BTTT hạn chế việc thiết lập blog).
Tại LHQ ở Genève, ông Võ Văn Ái lên tiếng tố cáo Hà Nội không tuân thủ các Công ước Nhân quyền LHQ, vi phạm nhân quyền trầm trọng, gây đại nạn sinh thái Tây nguyên vì mỏ bauxite
Ông Võ Văn Ái cũng tố cáo dự án Trung Việt lên tới 500 triệu Mỹ kim nhằm khai thác quặng bauxite ở Tây nguyên có nguy cơ gây “đại nạn sinh thái”, phá hủy “rừng, đất đai trồng trọt, thải ra hằng núi bùn độc” và làm hại đời sống của các dân tộc ít người. Mặc những lời báo động của các chuyên gia, những kiến nghị của dân cư địa phương, đặc biệt Thư ngỏ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu sách đánh giá lại việc quy hoạch khai thác bauxite trên Tây nguyên, Nhà cầm quyền vẫn cho khởi sự việc khai thác quặng bauxite với sự có mặt của hàng nghìn công nhân Trung quốc.
Đứng trước hiện trạng vi phạm nhân quyền trầm trọng, ông Võ Văn Ái yêu cầu Hội đồng Nhân quyền gây sức ép để nhà cầm quyền Việt Nam chấp nhận thường trực việc các “Báo cáo viên LHQ đặc nhiệm bảo vệ những người đấu tranh cho nhân quyền, đặc nhiệm tự do ngôn luận và tự do tôn giáo viếng thăm Việt Nam”.
Tài liệu tuyệt mật của Đảng Cộng sản nhằm đàn áp nhân quyền và dân chủ được công bố tại Điện Quốc liên, Genève
Tại cuộc Hội luận về tình hình Châu Á tổ chức ở Điện Quốc liên, Genève, ông Võ Văn Ái tiết lộ một “Tài liệu tuyệt mật” của đảng Cộng sản Việt Nam trong việc nuôi dưỡng sợ hãi để đàn áp dân lành nhằm củng cố quyền lực đảng ít nhất “trong 20 năm tới”. Tài liệu này phát xuất từ một cuộc họp kín ngày 10.7.2008. “Tài liệu cho thấy những phương pháp đàn áp được quy hoạch quy mô. Mọi cuộc khủng bố nhiều năm qua chống lại các quyền tự do cơ bản xác minh cho chính sách trắng trợn và vô nhân đạo được trình bày chi tiết qua tài liệu”.
Mục tiêu của Đảng nhằm “duy trì tuyệt đối nỗi sợ hãi dù mơ hồ trong tiềm thức – nhưng đồng thời cũng không để cho nhân dân cảm thấy tuyệt vọng, để dân chúng không bao giờ có đủ ý chí mà nổi loạn”, bởi vì “một người bất mãn cực độ là một người nguy hiểm cho chế độ”.
Tuy nhiên tài liệu viết “Phải làm sao để chúng ta vẫn trấn áp được đối lập dân chủ, nhưng vẫn không làm sức mẻ quan hệ ngoại giao đang ngày càng một tốt hơn với Hoa Kỳ và phương Tây”. Do vậy mà Đảng chỉ thị hình thành những nhóm “dân chủ giả hiệu” để cho ngưỡng vọng dân chủ của quần chúng không kết tụ thành phong trào tranh đấu thực sự.
Tài liệu tuyệt mật này lý luận rằng “Hai phạm trù “dân chủ” và “phát triển” có quan hệ hết sức phức tạp, phi tuyến, chứ không phải là quan hệ nhân - quả. Nghiên cứu kỹ thuật về vấn đề này sẽ rất có lợi cho chúng ta trong việc chủ động phát triển kinh tế mà không cần phải “dân chủ hoá””. Đồng thời nhận thức rằng “Các cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ độc tài bao giờ cũng do sinh viên và tri thức dẫn đầu; công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động khác chỉ là sức mạnh cơ bắp. Chỉ có trí thức và sinh viên mới đủ lý luận để huy động được đông đảo quần chúng, mới có lý tưởng để dấn thân, và mới có khả năng tổ chức và phối hợp”. Vì vậy phải “triệt tiêu được những phong trào sinh viên, cô lập được những trí thức phản kháng, chính là đánh vào đầu não chỉ huy của địch. Những thứ còn lại như “dân oan biểu tình”, “công nhân đình công”…chỉ là cơ bắp của một cơ thể đã bị liệt não”.
Chính vì vậy mà tài liệu đưa ra nhận xét bất ngờ, rằng “Chúng ta đã thành công trong việc làm cho sinh viên trở nên lãnh cảm về các loại ý thức hệ, thờ ơ với những tư tưởng tự do khai phóng từ phương Tây. Chúng ta chỉ còn phải đối phó với tinh thần dân tộc của sinh viên đang có nguy cơ thức dậy, mục đích là để nó ngủ yên, nếu không phải lèo lái nó theo hướng có lợi cho chúng ta”.
Nhằm thực hiện nhận xét trên, Đảng chỉ thị “Phải làm sao để nó chỉ là hoạt động manh mún, rời rạc, tự phát của các cá nhân đơn lẻ; làm cho có nhiều “lãnh tụ” mà ít hoặc không có quần chúng; có nhiều “nhân sĩ trí thức” mà ít hoặc không có một tổ chức nào có thực lực; có nhiêù những hoạt động lãng mạn hời hợi có tính phô trươn – mà người dân có biết đến cũng chỉ mỉm cười ý nhị – chứ ít hoặc không có những hoạt động thiết thực có tầm mức ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội; có thật nhiều những hoạt động “chống cộng cực đoan” có tính chất phá hoạt từ bên trong, gây phản cảm đối với người dân lao động, thậm chí làm cho những gia đình cách mạng và đội ngũ cựu chiến binh phẫn nộ”. Đồng thời với việc “Phải chủ động trong việc mở rộng xã hội dân sự, thuần phục và trung hoà giai cấp trung lưu đang lớn mạnh. Làm sao để trong mỗi tổ chức dân sự đều có chân rết của ta. Các tổ chức trung gian như Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Hội phụ nữ, các Hội cựu chiến binh, các Câu lạc bộ hưu trí… phải phát huy vai trò tối đa trong việc trung hoà những nhân tố nguy hiểm, điều hoà những xung đột nếu có giữa nhà nước và xã hội, giảm thiểu sự bất mãn của dân chúng… Làm sao để xã hội dân sự vẫn được mở rộng nhưng theo hướng có kiểm soát của chúng ta, chứ không trở thành mối đe doạ”. (…) “Phải giữ cho cái gọi là: “phong trào dân chủ đối lập” không thể trở thành phong trào đúng nghĩa, không thể bén rễ và lan rộng”.
Đánh giá giới trí thức, Đảng nhận định rằng “Đối với tầng lớp trí thức, những biện pháp “vừa trấn áp vừa vuốt ve” từ xưa đến nay đã đem lại kết quả khả quan. Chúng ta đã duy trì được một tầng lớp trí thức hèn nhát, háo danh, và nếu không quá ngu dốt thiển cận thì cũng chỉ được trang bị bởi những kiến thức chắp vá, hổ lốn, lỗi thời. Nói chung, đa số trí thức của chúng ta đều hèn, đều biết phục tùng theo đúng tinh thần “phò chính thống” của sĩ phu xưa nay. Phần lớn những kẻ được coi là trí thức cũng mang nặng cái mặc cảm của việc học không đến nơi đến chốn, ít có khả năng sáng tạo, và so với trí thức phương Tây về cả tri thức lẫn dũng khí đều cách xa một trời một vực.
“Trí thức của chúng ta vẫn mãi mãi giữ thân phận học trò, kiểu sĩ hoạn mơ ước được phò minh chủ, hanh thông trên đường hoạn lộ, chứ không bao giờ vươn lên thành những nhà tư tưởng lỗi lạc. Tầm mức ảnh hưởng của trí thức đến xã hội không đáng kể, không dành được sự kính trọng từ các tầng lớp nhân dân, thậm chí còn bị người đời khinh bỉ bởi sự vô liêm sỉ và thói quen ném rác vào mặt nhau.
“Chỉ có một số ít trí thức vượt qua được cái vỏ ốc hèn nhát, nhưng thường là quá đà trở nên kiêu ngạo tự mãn, coi mình như núi cao sông sâu, là lương tâm thời đại. Những người này quả thật có dũng khí, nhưng cũng không đáng sợ lắm bởi đa phần đều có tâm mà không có tài, có đởm lược mà ít kiến thức. Đa phần trong số này cũng chỉ đến khi về hưu mới thu gom được dũng khí mà ra mặt đối đầu với chúng ta, do đó sức cũng đã tàn, lực cũng đã kiệt.
“Một số ít trẻ trung hơn, nhiệt huyết còn phương cương, thì lại chưa có kinh nghiệm trường đời, chưa được trang bị lý luận chu đáo, chưa có kiến thức về dân chủ sâu rộng. Với những kẻ này chúng ta đàn áp không nương tay, bỏ tù từ 3 đến 7 năm. Đó là phương cách giết gà từ trong trứng. Thử tượng xem một tài năng trẻ phải chui chột những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời trong lao tù, cách ly với môi trương học vấn, gặm nhấm nỗi cô đơn thay cho việc học hành nghiên cứu, thì sao có thể phát triển hết khả năng? Khi ra tù thì cũng đã quá tuổi trung niên, mệt mỏi, chán chường. Nếu vẫn còn dũng khí thì cũng đã tụt hậu về kiến thức, bị trì néo bởi gánh nặng gia đình, còn làm gì được nữa?”
“Kiểm điểm thường kỳ toàn thế giới” về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam, Phúc trình của Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam được LHQ trích dẫn
Cuộc họp Hội đồng Nhân quyền LHQ lần thứ 10 sẽ chấm dứt vào ngày 27.3 tới. Nhưng sang đầu tháng 5 sẽ có phiên Hội đồng Nhân quyền LHQ nghe Hà Nội phúc trình tình trạng nhân quyền tại Việt Nam theo thể thức mới mỗi 4 năm một lần gọi là “Kiểm điểm thường kỳ toàn thế giới” (UPR, Universal Perodic Review).
Tại cuộc kiểm điểm này, Hội đồng Nhân quyền LHQ và các quốc gia thành viên sẽ nghe ba bản phúc trình. Một của Việt Nam Cộng sản về việc thực thi các Công ước Nhân quyền LHQ tại Việt Nam. Phúc trình thứ hai do Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ tóm gọn tất cả những khiếu nại hay tố cáo của các tổ chức Phi chính phủ về những vi phạm nhân quyền tại Việt Nam (tài liệu tham chiếu A/HRC/WG.6/5/VNM/3 - 23 February 2009). Xin vào xem trên Trang nhà LHQ: A_HRC_WG6_5_VNM_3_E.pdf hoặc trên Trang nhà Quê Mẹ A_HRC_WG6_5_VNM_3_E.pdf). Phúc trình thứ ba do các cơ cấu LHQ liên quan đến quyền con người thông qua các phúc trình đệ nạp tại LHQ về những vi phạm nhân quyền tại Việt Nam trên các lĩnh vực xã hội, dân sự, tôn giáo, phụ nữ, trẻ em, v.v… (tài liệu tham chiếu A/HRC/WG.6/5/VNM/2 - 19 February 2009).
Ngoại trừ phúc trình của Hà Nội sẽ được đọc tại buổi họp đầu tháng 5 tới. Trên trang nhà LHQ đã cho đăng tải 2 phúc trình nói trên cùng những phúc trình của các tổ chức Phi chính phủ nhân dịp “Kiểm điểm thường kỳ toàn thế giới” về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam. Nhìn chung thì bản Phúc trình của Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam (VCHR) và Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền (FIDH) được đặc biệt quan tâm và trích dẫn rất nhiều để chất vấn Hà Nội.
Bản Báo cáo của ông Võ Văn Ái đệ trình Ủy ban Xóa bỏ mọi Hình thức Phân biệt đối xử với Phụ nữ (CEDAW) diễn ra tại trụ sở LHQ ở Nữu Ước ngày 15.1.2007 nói lên sự phân biệt đối xử người phụ nữ Việt, nạn buôn bán phụ nữ cùng những xúc phạm Quyền phụ nữ, phản bác bản Phúc trình của Phái đoàn Hà Nội, đã được trích dẫn để đối chất với Hà Nội vào đầu tháng 5 tới. Trường hợp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng được lưu tâm qua các bản phúc trình chất vấn của LHQ.
27 March 2009
Chúng Nó Còn Là Người Việt Nam Không?
Cái bi đát nhất, giờ phút đen tối nhất của lịch sử dân tộc là khi có những kẻ lãnh đạo ngu dốt, miệng nói là người Việt Nam, nhưng hành động thì vong thân, vong bản, không còn nhận mình là người Việt Nam
Qua dòng lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, đất nước, dân tộc ta đã trải qua những thời gian đen tối: một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, gần 100 năm bị người Pháp đô hộ… Thế nhưng đó không phải là những giai đoạn bi đát nhất của lịch sử. Trong bất cứ trận chiến nào cũng có phe thắng, kẻ thua, tùy theo yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa, và tương quan lực lượng hai bên. Cái bi đát nhất, giờ phút đen tối nhất của lịch sử dân tộc là khi có những kẻ lãnh đạo ngu dốt, miệng nói là người Việt Nam, nhưng hành động thì vong thân, vong bản, không còn nhận mình là người Việt Nam, cõng rắn cắn gà nhà, tình nguyện làm kiếp tôi đòi phục vụ cho ngoại bang để được bố thí cho chút quyền hành hà hiếp dân lành và chút quyền lợi thừa để vênh mặt với đời!
Một Trần Ích Tắc. Một Lê Chiêu Thống…Tưởng đã quá đủ cho dân tộc bất hạnh này. Thế mà…
Ngày chưa chết, khi còn được đám lâu la cờ đỏ sao vàng vây quanh, điếu đóm, Hồ Chí Minh (HCM) đã hơn một lần dạy dỗ thuộc hạ: “Vua Hùng có công dựng nước. Bác cháu ta phải gìn giữ lấy nước!”
Không còn gì cảm động hơn! Nhưng tất cả chúng ta đều lầm. Lời nói phát xuất từ “một bậc thầy của trí trá” đóng vai yêu nước. Trong gần 80 năm thành lập băng đảng CSVG ở hang Pác Bó, HCM và băng đảng Cộng sản đã gìn giữ đất nước ta như thế nào?
Ngày 14 tháng 9 năm 1958, thừa lệnh HCM, Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức Cộng Sản Bắc Việt, Phạm Văn Đồng ký công hàm dâng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu để thắt chặt tình đồng chí sông liền sông, núi liền núi, đáp lại công lao đàn anh phương Bắc đã giúp đánh bại quân Pháp ở trận Điện Biên Phủ và tiếp tục chi viện người và võ khí trong mưu đồ thôn tính miền Nam, tức Việt Nam Cộng Hòa.
Năm 1964 sau khi được Bắc Bộ Phủ Hà Nội khai sinh, cái gọi là “chánh phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” tức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đã “hồ hỡi, phấn khởi,” hay nói theo ngôn ngữ VC hiện nay, “vô tư” dâng hiến năm hòn đảo thuộc lãnh thổ miền Nam, có dân cư VN đang sinh sống, nằm đối diện với thành phố Kép của Cao Miên, làm quà cho quốc trưởng Cao Miên Sihanouk trong chuyến “thăm hữu nghị” đầu tiên. Phái đoàn gồm có Huỳnh Tấn Phát, Dương Quỳnh Hoa, và còn lại là đảng viên cao cấp của Hà Nội (Theo Hồi Ký của kỹ sư Hồ Văn Bửu, Ủy Viên Chánh Phủ Lâm Thời CHMNVN. Bửu theo Mặt Trận năm 1964 và hồi chánh năm 1970. Xin đọc “Vài bí mật chưa được tiết lộ về MTGPMN,” , Hứa Hoành).
Vậy trong thời gian chống Mỹ để thôn tính miền Nam, CSVG Hà Nội không từ khước những hành vi dâng đất quê cha cho ngoại bang để đổi lấy sự tiếp tế người và của từ Tàu hay để Cao Miên làm ngơ cho sử dụng đất Miên làm nơi ẩn náu. Phải chăng đó là ý nghĩa đích thật câu nói của HCM, “bác cháu ta phải gìn giữ nước?”
Sau tháng 4-1975, chiếm trọn miền Nam, thống nhất cả nước và sau khi được đàn anh phương Bắc “dạy cho bài học” năm 1979, bộ chánh trị đảng CSVG từ 1991 sẵn sàng làm bất cứ gì để “làm đẹp lòng” kẻ thù truyền kiếp của dân tộc VN và thần phục Tàu như kẻ tôi đòi không còn nhân cách: chấp nhận mọi đòi hỏi đất đai, hải phận để giữ vững ngôi vị “thái thú” của mình. Đảo mất, lãnh thổ vùng biên giới mất, vùng biển mất. Dân Tàu ra vào đất nước ta tự do không cần giấy nhập cảnh, dễ dàng hơn di chuyển trong đất nước của họ. Tài nguyên để cho Tàu mặc tình khai thác. Mới đây, ngày 04-02-2009, Nguyễn Tấn Dũng lại “cho phép “ Tàu đỏ khai thác quặng Bauxite ở Tây Nguyên, rất cần thiết để phát triển kỹ nghệ chiến tranh. Như lời Nguyễn Tấn Dũng cho biết “đó là đường lối của đảng, không ai có quyền bàn đến.” Môi sinh bị Tàu hủy hoại. Kinh tế bị hàng hóa Tàu tràn ngập. Khách trú Tàu được công an, CSCĐ, chó nghiệp vụ tích cực và hăng say bảo vệ hơn là nhân dân Việt Nam… Thanh niên sinh viên Việt Nam biểu tình chống kẻ thù cướp đất bị công an, cảnh sát đàn áp không nương tay!
Điều nghịch lý là lãnh thổ và hải phận Việt Nam hiện nay so với thời thực dân Pháp đô hộ nhỏ hẹp hơn vì thực dân Pháp… quyết tâm bảo vệ từng tấc đất của nước ta. Vậy ai lo “gìn giữ” đất nước ta hơn? CSVG hay thực dân Pháp? Sự kiện này đã nói lên điều gì? Bạn hãy suy nghĩ và trả lời đi!
Chưa hết, CSVG đã sửa lại lịch sử dân tộc biến kẻ thù truyền kiếp thành người bạn chí thân nhất của VN. Khi nhắc tới giai đoạn lịch sử 1000 nô lệ giặc Tàu, tài liệu, sách báo VGCS chỉ gọi “thế lực nước ngoài,” chớ không dám gọi đích danh “giặc Tàu.” Mới đây, nhà xuất bản Văn Học của CSVG lại cho phát hành tiểu thuyết “Ma Chiến Hữu” của tác giả Tàu Mạc Ngôn. Tiểu thuyết này do công ty văn hóa Phương Nam của CSVG mua bản quyền. Dịch giả là Trần Trung Hỷ.
“Ma Chiến Hữu” l à câu chuyện viết về những binh sĩ Tàu lên đường giết giặc “bọn man di” trong cuộc chiến năm 1979 giữa VN và Trung Quốc. Nhân vật chánh là Tiên Anh Hào. Cuộc chiến 1979 là sự xâm lược của quân Tàu đối với VN. Những binh sĩ Tàu khi sang VN áp dụng chủ trương “phá sạch, giết sạch” của Đặng Tiểu Bình để dạy cho CSVG một bài học. Mạc Ngôn ca tụng, gọi binh sĩ Tàu là những “anh hùng” và gọi quân đội CSVG và dân tộc VN là “bọn man di!”
Sau 30 năm được đàn anh “dạy cho bài học” về thân phận của hàng thần chư hầu (02-1979 – 02-2009), CSVG giữ thái độ “câm miệng hến” về cuộc xâm lược này. Nhà xuất bản Văn Học của CSVG còn cho đám bồi bút tay sai Tàu Cộng viết giới thiệu, ca tụng anh hùng tính của “Ma Chiến Hữu” và báo Hà Nội Mới của thành ủy Hà Nội ca ngợi tướng tàu Hứa Thế Hữu như một danh tướng anh hùng. Hứa Thế Hũu là tướng Tàu chỉ huy trận đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 và tấn công Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Bắc VN, tháng 2 năm 1979.
Sự kiện này chứng tỏ CSVG đã không còn cái lương tri tối thiểu của người VN, ca tụng bọn giặc cướp là anh hùng và đồng thời khinh miệt những người lính bảo vệ chế độ là “bọn man di.” Thỉnh thoảng, có những bài báo hay truyện ngắn viết về cuộc chiến xâm lược 1979 này đã bị Ban Văn Hoá Trung Ương Đảng thu hồi, cấm phổ biến; và tác giả bị vùi dập. Tháng 10-1008, tập truyện ngắn Rồng Đá của Vũ Ngọc Tiến bị thu hồi và nhà xuất bản ở Đà Nẵng bị đóng cửa hơn ba tháng vì có một truyện ngắn nói đến cuộc chiến biên giới giữa VC và Tàu Cộng năm 1979.
Trong thơ gởi cho dịch giả, nhạc sĩ Tuấn Khanh muốn nhắn gởi những kẻ cầm quyền, lãnh đạo đảng CSVG:
“Các ngài đang là kẻ chỉ đường cho bọn xâm lược dồn đuổi dân tộc mình đến chỗ khốn cùng. Vì tôi, các ngài và cùng sống chung trên một mảnh đất thấm máu cha ông. Tôi muốn nói thẳng rằng: Các ngài, kể cả những ai còn giấu mặt nhưng có tham vọng bịt mắt dân tộc này, tất cả các ngài, nếu có thể, thì cứ tự do bán đi tất cả thuộc về các ngài nhưng hãy giữ lại lương tri và những gì tổ tiên đã để lại, để cứu chuộc cho chính bản thân mình.”
Chưa bao giờ đất nước ta, dân tộc ta bị kẻ thù phương Bắc khinh miệt như hiện nay, dưới chế độ CSVG của Hồ Chí Minh. Tình cảnh này càng ngày càng tệ, càng xuống cấp nếu CSVG vẫn còn cầm quyền lãnh đạo. Xin ai đó đừng gọi CSVG Bắc Bộ Phủ là “chánh quyền.” Không có thứ loại “chánh quyền” nào khiếp nhược với ngọại bang Tàu và thâm thù nhân dân ta như HCM và đám lâu la hậu duệ Hà Nội. Chúng đã chấp nhận thân phận tôi đòi, chư hầu của giặc Tàu. CSVG còn cầm quyền thì chỉ trong một thời gian ngắn nữa đất nước ta sẽ biến thành tô giới của Tàu hay một Tây Tạng khác ở phía Nam!
Trong khi tỏ thái độ và hành động thần phục giặc Tàu một cách đê hèn và khiếp nhược thì CSVG đàn áp không nương tay những thành phần thanh niên, sinh viên, trí thức lên tiếng chống bọn xâm lăng, đàn áp những người yêu nước tranh đấu cho tự do, dân chủ!
Các lãnh tụ VGCS, hầu hết hoặc xuất phát hoặc sớm gia nhập thành phần “quần chúng tự phát,” không cấp sách đến trường, không thông hiểu lịch sử đất nước ta nên không biết đến câu nói bất hủ của danh tướng nhà Trần, Trần Bình Trọng, “Ta thà làm quỷ nước Nam chớ không thèm làm vua đất Bắc.”
Tháng 7-1979, Hoàng Văn Hoan, phó chủ tịch quốc hội VC, trốn sang Tàu với giấc mơ Lê Chiêu Thống. Trong thời “đổi mới” hiện nay, lãnh tụ CSVG khôn ranh hơn, có chủ trương mới theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa: “Thà làm thái thù đất Nam chớ dại gì làm xác khô phơi thây bên vệ đường cho kênh quạ ăn!” Thép đã tôi thế ấy rồi!
Đảng ta giờ phải cúi đầu
Cam tâm làm CHÓ cho Tàu, nhuc không?
Chúng nó -- Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Nông Đức mạnh, Phạm Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Lê Hồng Anh, Nguyễn Văn Hưởng, Phạm Gia Khiêm, Lê Công Phụng... và toàn ban, toàn bộ chính trị băng đảng CSVG trước nay – có phải là người Việt Nam không? Hay chúng nó là gián điệp của Tàu? Chúng nó mang họ Mã, họ Ngưu, họ Cẩu hay họ Man? Chúng nó là người hay chỉ là loài cẩu trệ đội lốt người?
Qua dòng lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, đất nước, dân tộc ta đã trải qua những thời gian đen tối: một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, gần 100 năm bị người Pháp đô hộ… Thế nhưng đó không phải là những giai đoạn bi đát nhất của lịch sử. Trong bất cứ trận chiến nào cũng có phe thắng, kẻ thua, tùy theo yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa, và tương quan lực lượng hai bên. Cái bi đát nhất, giờ phút đen tối nhất của lịch sử dân tộc là khi có những kẻ lãnh đạo ngu dốt, miệng nói là người Việt Nam, nhưng hành động thì vong thân, vong bản, không còn nhận mình là người Việt Nam, cõng rắn cắn gà nhà, tình nguyện làm kiếp tôi đòi phục vụ cho ngoại bang để được bố thí cho chút quyền hành hà hiếp dân lành và chút quyền lợi thừa để vênh mặt với đời!
Một Trần Ích Tắc. Một Lê Chiêu Thống…Tưởng đã quá đủ cho dân tộc bất hạnh này. Thế mà…
Ngày chưa chết, khi còn được đám lâu la cờ đỏ sao vàng vây quanh, điếu đóm, Hồ Chí Minh (HCM) đã hơn một lần dạy dỗ thuộc hạ: “Vua Hùng có công dựng nước. Bác cháu ta phải gìn giữ lấy nước!”
Không còn gì cảm động hơn! Nhưng tất cả chúng ta đều lầm. Lời nói phát xuất từ “một bậc thầy của trí trá” đóng vai yêu nước. Trong gần 80 năm thành lập băng đảng CSVG ở hang Pác Bó, HCM và băng đảng Cộng sản đã gìn giữ đất nước ta như thế nào?
Ngày 14 tháng 9 năm 1958, thừa lệnh HCM, Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức Cộng Sản Bắc Việt, Phạm Văn Đồng ký công hàm dâng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu để thắt chặt tình đồng chí sông liền sông, núi liền núi, đáp lại công lao đàn anh phương Bắc đã giúp đánh bại quân Pháp ở trận Điện Biên Phủ và tiếp tục chi viện người và võ khí trong mưu đồ thôn tính miền Nam, tức Việt Nam Cộng Hòa.
Năm 1964 sau khi được Bắc Bộ Phủ Hà Nội khai sinh, cái gọi là “chánh phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” tức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đã “hồ hỡi, phấn khởi,” hay nói theo ngôn ngữ VC hiện nay, “vô tư” dâng hiến năm hòn đảo thuộc lãnh thổ miền Nam, có dân cư VN đang sinh sống, nằm đối diện với thành phố Kép của Cao Miên, làm quà cho quốc trưởng Cao Miên Sihanouk trong chuyến “thăm hữu nghị” đầu tiên. Phái đoàn gồm có Huỳnh Tấn Phát, Dương Quỳnh Hoa, và còn lại là đảng viên cao cấp của Hà Nội (Theo Hồi Ký của kỹ sư Hồ Văn Bửu, Ủy Viên Chánh Phủ Lâm Thời CHMNVN. Bửu theo Mặt Trận năm 1964 và hồi chánh năm 1970. Xin đọc “Vài bí mật chưa được tiết lộ về MTGPMN,” , Hứa Hoành).
Vậy trong thời gian chống Mỹ để thôn tính miền Nam, CSVG Hà Nội không từ khước những hành vi dâng đất quê cha cho ngoại bang để đổi lấy sự tiếp tế người và của từ Tàu hay để Cao Miên làm ngơ cho sử dụng đất Miên làm nơi ẩn náu. Phải chăng đó là ý nghĩa đích thật câu nói của HCM, “bác cháu ta phải gìn giữ nước?”
Sau tháng 4-1975, chiếm trọn miền Nam, thống nhất cả nước và sau khi được đàn anh phương Bắc “dạy cho bài học” năm 1979, bộ chánh trị đảng CSVG từ 1991 sẵn sàng làm bất cứ gì để “làm đẹp lòng” kẻ thù truyền kiếp của dân tộc VN và thần phục Tàu như kẻ tôi đòi không còn nhân cách: chấp nhận mọi đòi hỏi đất đai, hải phận để giữ vững ngôi vị “thái thú” của mình. Đảo mất, lãnh thổ vùng biên giới mất, vùng biển mất. Dân Tàu ra vào đất nước ta tự do không cần giấy nhập cảnh, dễ dàng hơn di chuyển trong đất nước của họ. Tài nguyên để cho Tàu mặc tình khai thác. Mới đây, ngày 04-02-2009, Nguyễn Tấn Dũng lại “cho phép “ Tàu đỏ khai thác quặng Bauxite ở Tây Nguyên, rất cần thiết để phát triển kỹ nghệ chiến tranh. Như lời Nguyễn Tấn Dũng cho biết “đó là đường lối của đảng, không ai có quyền bàn đến.” Môi sinh bị Tàu hủy hoại. Kinh tế bị hàng hóa Tàu tràn ngập. Khách trú Tàu được công an, CSCĐ, chó nghiệp vụ tích cực và hăng say bảo vệ hơn là nhân dân Việt Nam… Thanh niên sinh viên Việt Nam biểu tình chống kẻ thù cướp đất bị công an, cảnh sát đàn áp không nương tay!
Điều nghịch lý là lãnh thổ và hải phận Việt Nam hiện nay so với thời thực dân Pháp đô hộ nhỏ hẹp hơn vì thực dân Pháp… quyết tâm bảo vệ từng tấc đất của nước ta. Vậy ai lo “gìn giữ” đất nước ta hơn? CSVG hay thực dân Pháp? Sự kiện này đã nói lên điều gì? Bạn hãy suy nghĩ và trả lời đi!
Chưa hết, CSVG đã sửa lại lịch sử dân tộc biến kẻ thù truyền kiếp thành người bạn chí thân nhất của VN. Khi nhắc tới giai đoạn lịch sử 1000 nô lệ giặc Tàu, tài liệu, sách báo VGCS chỉ gọi “thế lực nước ngoài,” chớ không dám gọi đích danh “giặc Tàu.” Mới đây, nhà xuất bản Văn Học của CSVG lại cho phát hành tiểu thuyết “Ma Chiến Hữu” của tác giả Tàu Mạc Ngôn. Tiểu thuyết này do công ty văn hóa Phương Nam của CSVG mua bản quyền. Dịch giả là Trần Trung Hỷ.
“Ma Chiến Hữu” l à câu chuyện viết về những binh sĩ Tàu lên đường giết giặc “bọn man di” trong cuộc chiến năm 1979 giữa VN và Trung Quốc. Nhân vật chánh là Tiên Anh Hào. Cuộc chiến 1979 là sự xâm lược của quân Tàu đối với VN. Những binh sĩ Tàu khi sang VN áp dụng chủ trương “phá sạch, giết sạch” của Đặng Tiểu Bình để dạy cho CSVG một bài học. Mạc Ngôn ca tụng, gọi binh sĩ Tàu là những “anh hùng” và gọi quân đội CSVG và dân tộc VN là “bọn man di!”
Sau 30 năm được đàn anh “dạy cho bài học” về thân phận của hàng thần chư hầu (02-1979 – 02-2009), CSVG giữ thái độ “câm miệng hến” về cuộc xâm lược này. Nhà xuất bản Văn Học của CSVG còn cho đám bồi bút tay sai Tàu Cộng viết giới thiệu, ca tụng anh hùng tính của “Ma Chiến Hữu” và báo Hà Nội Mới của thành ủy Hà Nội ca ngợi tướng tàu Hứa Thế Hữu như một danh tướng anh hùng. Hứa Thế Hũu là tướng Tàu chỉ huy trận đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 và tấn công Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Bắc VN, tháng 2 năm 1979.
Sự kiện này chứng tỏ CSVG đã không còn cái lương tri tối thiểu của người VN, ca tụng bọn giặc cướp là anh hùng và đồng thời khinh miệt những người lính bảo vệ chế độ là “bọn man di.” Thỉnh thoảng, có những bài báo hay truyện ngắn viết về cuộc chiến xâm lược 1979 này đã bị Ban Văn Hoá Trung Ương Đảng thu hồi, cấm phổ biến; và tác giả bị vùi dập. Tháng 10-1008, tập truyện ngắn Rồng Đá của Vũ Ngọc Tiến bị thu hồi và nhà xuất bản ở Đà Nẵng bị đóng cửa hơn ba tháng vì có một truyện ngắn nói đến cuộc chiến biên giới giữa VC và Tàu Cộng năm 1979.
Trong thơ gởi cho dịch giả, nhạc sĩ Tuấn Khanh muốn nhắn gởi những kẻ cầm quyền, lãnh đạo đảng CSVG:
“Các ngài đang là kẻ chỉ đường cho bọn xâm lược dồn đuổi dân tộc mình đến chỗ khốn cùng. Vì tôi, các ngài và cùng sống chung trên một mảnh đất thấm máu cha ông. Tôi muốn nói thẳng rằng: Các ngài, kể cả những ai còn giấu mặt nhưng có tham vọng bịt mắt dân tộc này, tất cả các ngài, nếu có thể, thì cứ tự do bán đi tất cả thuộc về các ngài nhưng hãy giữ lại lương tri và những gì tổ tiên đã để lại, để cứu chuộc cho chính bản thân mình.”
Chưa bao giờ đất nước ta, dân tộc ta bị kẻ thù phương Bắc khinh miệt như hiện nay, dưới chế độ CSVG của Hồ Chí Minh. Tình cảnh này càng ngày càng tệ, càng xuống cấp nếu CSVG vẫn còn cầm quyền lãnh đạo. Xin ai đó đừng gọi CSVG Bắc Bộ Phủ là “chánh quyền.” Không có thứ loại “chánh quyền” nào khiếp nhược với ngọại bang Tàu và thâm thù nhân dân ta như HCM và đám lâu la hậu duệ Hà Nội. Chúng đã chấp nhận thân phận tôi đòi, chư hầu của giặc Tàu. CSVG còn cầm quyền thì chỉ trong một thời gian ngắn nữa đất nước ta sẽ biến thành tô giới của Tàu hay một Tây Tạng khác ở phía Nam!
Trong khi tỏ thái độ và hành động thần phục giặc Tàu một cách đê hèn và khiếp nhược thì CSVG đàn áp không nương tay những thành phần thanh niên, sinh viên, trí thức lên tiếng chống bọn xâm lăng, đàn áp những người yêu nước tranh đấu cho tự do, dân chủ!
Các lãnh tụ VGCS, hầu hết hoặc xuất phát hoặc sớm gia nhập thành phần “quần chúng tự phát,” không cấp sách đến trường, không thông hiểu lịch sử đất nước ta nên không biết đến câu nói bất hủ của danh tướng nhà Trần, Trần Bình Trọng, “Ta thà làm quỷ nước Nam chớ không thèm làm vua đất Bắc.”
Tháng 7-1979, Hoàng Văn Hoan, phó chủ tịch quốc hội VC, trốn sang Tàu với giấc mơ Lê Chiêu Thống. Trong thời “đổi mới” hiện nay, lãnh tụ CSVG khôn ranh hơn, có chủ trương mới theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa: “Thà làm thái thù đất Nam chớ dại gì làm xác khô phơi thây bên vệ đường cho kênh quạ ăn!” Thép đã tôi thế ấy rồi!
Đảng ta giờ phải cúi đầu
Cam tâm làm CHÓ cho Tàu, nhuc không?
Chúng nó -- Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Nông Đức mạnh, Phạm Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Lê Hồng Anh, Nguyễn Văn Hưởng, Phạm Gia Khiêm, Lê Công Phụng... và toàn ban, toàn bộ chính trị băng đảng CSVG trước nay – có phải là người Việt Nam không? Hay chúng nó là gián điệp của Tàu? Chúng nó mang họ Mã, họ Ngưu, họ Cẩu hay họ Man? Chúng nó là người hay chỉ là loài cẩu trệ đội lốt người?
25 March 2009
'TQ phải có căn cứ quân sự tại Trường Sa'
Tất cả chúng ta cần hiểu rõ tính cấp bách trong việc phát triển Nam Hải. Cần chạy đua với các nước láng giềng, áp dụng các chính sách ưu đãi đặc biệt, khuyến khích các địa phương và các công ty, các cá nhân để phát triển và khai thác nguồn dầu khí; nhằm tăng khí thế của toàn dân trong việc khai thác Nam Hải.
Tờ Hoàn Cầu Thời báo tại Trung Quốc trong số mới nhất 18/3 vừa có bài của tác giả Đới Hy kêu gọi thiết lập căn cứ quân sự tại Trường Sa. BBCVietnamese.com xin trích giới thiệu cùng quý vị.
Bài bình luận có tựa đề "Quân đội của chúng ta cần thiết lập căn cứ quy mô lớn tại Nam Sa để bảo vệ việc phát triển nguồn tài nguyên Nam Hải" bắt đầu bằng nhận định rằng nguyên tắc nền tảng của Trung Quốc trong xử lý các tranh chấp lãnh thổ là 'Gạt bất đồng để cùng phát triển'.
"Tuy nhiên, với tình hình hiện tại Nam Hải (Biển Đông), chúng ta đã luôn luôn 'gạt bất đồng' nhưng chưa đủ nỗ lực trong tham gia 'cùng phát triển'.
Không giống Philippines hay một số nước khác tìm phương cách luật pháp để xung đột với Trung Quốc, nhiều quốc gia lại dùng các biện pháp kín để lặng lẽ rút dần tài nguyên từ quần đảo Nam Sa (Trường Sa).
Chúng ta chỉ có thể đạt được một sự công nhận (chủ quyền) rõ ràng nếu thúc đẩy phát triển và khai thác nguồn tài nguyên ở Nam Hải.
Tàu ngầm TQ đang tiến về Trường Sa
Trung Quốc vẫn chưa có một giếng dầu hay mỏ khí nào ở Nam Hải
Theo ước tính của các cơ quan chức năng, trữ lượng dầu khí của khu vực bồn trũng chính ở Nam Hải là hàng chục tỷ tấn. Vào cuối thập niên 1990, các nước láng giềng đã hợp tác cùng các tập đoàn dầu khí quốc tế để khoan hơn một ngàn giếng trong vùng biển Nam Sa, phát hiện hơn 200 điểm có dầu khí và khai thác hơn 180 mỏ.
Các xung đột và tranh chấp trong Đông Hải và Nam Hải, cùng khủng hoảng qua eo biển Đài Loan tiếp tục làm mỗi con người Trung Quốc day dứt. Nói tương lai Trung Quốc nằm trong các vùng biển đảo là không hề phóng đại.
Năm 1999, sản lượng dầu hàng năm của các nước này đạt trên 40 triệu tấn và sản lượng khí đốt là 31 tỷ mét khối, tức lớn hơn sản lượng dầu khí ngoài khơi của Trung Quốc là 2,5 và 7 lần.
Tin cho hay, một nước chiếm nhiều đảo của Trung Quốc tại Nam Sa nhất đã chia vùng biển quanh quần đảo này thành hàng trăm lô mời thầu và tiếp tục ký hợp đồng với Hoa Kỳ, Nga, Pháp, Anh, Đức cùng các nước khác để thăm dò và khai thác dầu khí.
Mỗi năm, nước này thu nhập hơn 10 tỷ đôla từ dầu khí. Vào cuối 2004, Việt Nam đã xây đường băng trên đảo Trường Sa để phi cơ loại vừa có thể hạ cánh.
Vậy mà Trung Quốc vẫn chưa có lấy một giếng dầu hay mỏ khí nào hoạt động tại Nam Hải.
Một số nguồn tin trong ngành nói đó là vì hệ thống quyền lực cục bộ giữa giới chức trung ương và địa phương.
Tương lai của Trung Quốc nằm tại các vùng biển đảo
Không chú ý đúng mức tới các vùng biển đảo sẽ dẫn tới hậu quả trầm trọng. Chúng ta đã có bài học sâu sắc trong lĩnh vực này.
Tới nay, các xung đột và tranh chấp trong Đông Hải và Nam Hải, cùng khủng hoảng qua eo biển Đài Loan tiếp tục làm mỗi con người Trung Quốc day dứt.
Nói tương lai Trung Quốc nằm trong các vùng biển đảo là không hề phóng đại.
Không có nguồn lợi biển và không bảo đảm an ninh được cho các tuyến giao thương hàng hải, Trung Quốc sẽ dựa vào đâu để mà hồi sinh?
Tất cả chúng ta cần hiểu rõ tính cấp bách trong việc phát triển Nam Hải. Cần chạy đua với các nước láng giềng, áp dụng các chính sách ưu đãi đặc biệt, khuyến khích các địa phương và các công ty, các cá nhân để phát triển và khai thác nguồn dầu khí; nhằm tăng khí thế của toàn dân trong việc khai thác Nam Hải.
Thiết lập căn cứ quy mô lớn tại Nam Hải
Nguồn tài nguyên Nam Hải không chỉ giới hạn trong dầu và khí đốt, bởi vậy việc phát triển Nam Hải cần được hoạch định với tính toán và sử dụng các biện pháp đa dạng, cân nhắc mọi yếu tố.
Phát triển dầu và khí đốt phải là hoạt động chính trong bước tiếp theo.
Một căn cứ quy mô lớn phải được thiết lập tại Nam Hải, nơi mà vị trí chiến lược của tuyến hàng hải quốc tế phải được sử dụng để cung cấp các dịch vụ toàn diện cho các tàu của Trung Quốc và nước ngoài.
Căn cứ này sẽ là tiền đề cho sự hiện diện ngoài khơi của Trung Quốc trên thế giới.
Một khi dây chuyền hàng hải bao gồm các ngành đánh cá, sinh học biển, dầu khí, vận tải, du lịch dịch vụ vv.. được thiết lập, nó sẽ trở thành động lực kinh tế to lớn cho tỉnh Hải Nam và cả nước.
Khi đã có quan tâm lợi ích của cả nước, sự tham gia của hải quân là điều tất yếu.
Song song với việc phát triển nguồn tài nguyên Nam Hải, cần thiết lập căn cứ (quân sự) trên quần đảo Nam Sa, với các cơ sở dành cho máy bay, trực thăng và các loại hình tác chiến khác. Hải phận và không phận rộng lớn ở đây sẽ trở thành địa điểm huấn luyện quân sự... không chỉ bảo vệ phát triển kinh tế của toàn Nam Hải mà còn thúc đẩy hiện đại hóa quân đội.
Tác giả Đới Hy là đại tá không quân và là một nhà bình luận có tiếng về các vấn đề chiến lược. Tờ Hoàn cầu Thời báo là ấn bản bổ sung của cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc - Nhân dân Nhật báo, ra mỗi tuần hai lần bằng tiếng Trung.
Biển Đông chuẩn bị "nổi sóng" hay không?
Biển Đông sắp sửa nổi sóng hay không? Thưa quý bạn chúng ta nên theo dõi tin chuyển biến tại vùng này tốt hơn lại nghe phát biểu của "cái loa rĩ " VN :
VN phản ứng về quyết định của BP(BBC) BP đã có nhiều năm hoạt động tại VN tại Nam Côn Sơn
Một ngày sau khi tập đoàn dầu khí Anh British Petroleum (BP) xác nhận rút khỏi dự án thăm dò tại hai lô 5.2 và 5.3 ở bồn trũng Nam Côn Sơn, phía Việt Nam có phản ứng chính thức.Người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Dũng nói ông được biết 'quyết định này của BP là do các yếu tố thuần túy thương mại và kỹ thuật'.???
BP rút khỏi dự án thăm dò dầu khí ngoài khơi Việt Nam 20/03/2009
VOA: Hãng dầu khí BP của Anh sẽ rút khỏi dự án thăm dò khai thác dầu khí ở lô số 5,2 và 5.3 ngoài khơi Việt Nam.
Tin tức ngày thứ Sáu của Dow Jones trích lời một giới chức không nêu tên nói rằng quyết định này được đưa ra trong khi công ty xem xét lại kế hoạch kinh doanh.
Giới chức này nói thêm rằng BP Việt Nam đang thảo luận với PetroVietnam và các đối tác để xúc tiến việc rút khỏi dự án này trong năm 2009, tuy nhiên giới chức này không nêu thời biểu cụ thể.
Một giới chức PetroVietnam cho hay công ty BP và PetroVietnam cũng như công ty ConocoPhillips cùng khai thác dầu khí kể từ trước năm 2000.
BP là nhà sản xuất khí đốt nước ngoài lớn nhất ở Việt Nam, với hoạt động cung cấp 3 tỉ mét khối khí một năm từ Lô 06.1 ở Mỏ Nam Côn Sơn.
Theo phân tích gia tài chính Bùi Kiến Thành thì quyết định rút khỏi những lĩnh vực này của BP sẽ ảnh hưởng tới nỗ lực của Việt Nam trong việc gia tăng nguồn cung cấp khí thiên nhiên để thúc đẩy sản lượng năng lượng.
Ông Thành cho biết thêm là hai lô này nằm ở khu vực với điều khiện khó khăn cho việc sản xuất vì vậy chắc chắn cần có sự tham gia của các đối tác quốc tế lớn, nếu không có BP thì Việt Nam sẽ phải trì hoãn hoạt động đưa khí đốt vào bờ.
Tưởng cũng nên nhắc lại là hồi tháng Sáu năm 2007 BP cũng đã ngưng kế hoạch khảo sát Lô 5.2 do có tranh chấp về lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc và người phát ngôn của công ty lúc đó nói rằng BP phải ngưng kế hoạch khảo sát địa chất để chính phủ hai bên có cơ hội giải quyết vấn đề này...
Còn phía VN thời gian này thì động thái như thế nào? ngày 18 tháng 3
Hôm thứ tư, Bộ Ngoại giao Việt Nam cho hay Việt Nam đang 'theo dõi chặt chẽ 'tất cả các hoạt động của tàu tuần tra các hoạt động đánh cá của Trung Quốc hiện đang ở Biển Đông.
Tuyên bố này được đưa ra sau khi Trung Quốc điều tàu đến quần đảo Trường Sa hôm thứ Hai vừa qua.
Vì như chúng ta đã biêt sự kiện gây căng thẳng :
Hải quân Mỹ, TQ đối đầu trong vùng biển nam Trung Quốc
09/03/2009
Chính phủ Hoa Kỳ nói Trung Quốc vi phạm luật quốc tế trong một sự cố mới đây trên Biển Nam Trung Quốc.
Các quan chức quân sự Mỹ cho biết 3 chiếc tàu hải quân Trung Quốc và hai chiếc tàu lưới cá đã theo dõi chiếc Impeccable của hải quân Mỹ.
Chiếc tàu của Mỹ kéo theo các thiết bị sonar để quan sát tàu ngầm.
Tàu của Trung Quốc đã buộc chiếc Impeccable ngừng lại trên hải phận quốc tế ở vị trị cách đảo Hải Nam của Trung Quốc khoảng 120 kilômét...
Chuyên là Tàu không thể nào để HOa kỳ đặt chân vào biển Đông được nữa trong khi Hoa kỳ lại đem các thiết bị dò tìm tàu ngầm của Tàu cộng ở đây?
Hãng BP rút chân ra để Mỹ "nhảy vào " hay là đang tìm đường tránh trước một "biển Đông dậy sóng " đến nơi?
Đây là 1 vấn đề cho chúng ta suy nghĩ.
Tàu cộng liền cho đàn em dọa phóng hỏa tiễn đường dài để :
1 , đo lường phản ứng của Mỹ
2, giải tòa sức ép tại biển Đông
3, ra điều kiện đổi chác biển Đông và "mối đe dọa " Bắc Hàn ;
trong điều thứ 3 này chúng ta thấy thử tướng Bắc hàn Kim jong Il cùng cả phái đoàn tuỳ tùng dài lê thê đang đến Bắc kinh dự buổi lễ kỷ niệm 50 năm quan hệ Hàn Trung với không khí to lớn khác hẳn. Tàu cộng muốn cho phía Mỹ thấy dù Tàu cộng chưa tạo được liên minh Nga Trung nhưng liên minh Hàn Trung là thực tế cùng với lực lượng hỏa tiễn "tầm xa" của tên đàn em trung thành nhất là Bắc Hàn.
Bắc kinh còn bật đèn xanh cho Bắc hàn từ chối thẳng thừng viện trợ thực phẩm của MỸ điều này chứng tỏ Bắc kinh đã bảo đảm trước cho Bắc hàn trước chuyện quan trọng nhất cho Bắc hàn là chuyện bao tử tức là nguồn thực phẩm. Với khả năng của Bắc kinh hiện nay , chuyện bảo đảm viện trợ cho Bắc hàn dù "âm thầm " nhưng chúng ta tin rằng Bắc kinh có khả năng đó.
Cuối cùng canh bạc "biển Đông " hiện Mỹ và Tàu đang đâu trí với nhau.
Chỉ còn vài ngày nữa là qua đầu tháng 4 , thời điểm Bắc hàn dọa sẽ phóng hỏa tiễn tầm xa và phía Mỹ Nhật cũng khẳng định sẽ "bắn hạ ". Luận điệu hai bên đều quyết định ; vấn đề là Bắc kinh chắc chắn đang đứng sau lưng Bình Nhưỡng để "Stop" hay "tiến tới " luôn??? Và chuyên này đưa chúng ta tới 2 điều tiên đoán :
1, Bắc hàn có phóng hỏa tiễn đường dài thực sự hay không? và nếu phóng thì phía Mỹ Nhật có phóng ngăn không?
2 , Và chúng ta có khả năng đoán trước diễn biến sau sự kiện như điêu 1 thực sự xảy ra?
3,Tầm mức sau sự kiện hỏa tiễn đường dài Bắc hàn sẽ xảy ra thực sự nó sẽ lan tỏa đến biển Đông và phải chăng phía nào cũng vào thế "CƯỠI LƯNG CỌP "
chỉ còn 1 thời gian 10 ngày nữa cái hệ luỵ hỏa tiễn Bắc hàn hi vọng nó sẽ "cụp vòi " xuống thôi vì Biến Chứng của nó sẽ lan rộng chứ không phải tầm thường.
Có 1 điều chắc chắn là tóc của TT OBAMA đang thêm nhiều sợi bạc.
xin chào các bạn
xuân khê 21/3/09
Tờ Hoàn Cầu Thời báo tại Trung Quốc trong số mới nhất 18/3 vừa có bài của tác giả Đới Hy kêu gọi thiết lập căn cứ quân sự tại Trường Sa. BBCVietnamese.com xin trích giới thiệu cùng quý vị.
Bài bình luận có tựa đề "Quân đội của chúng ta cần thiết lập căn cứ quy mô lớn tại Nam Sa để bảo vệ việc phát triển nguồn tài nguyên Nam Hải" bắt đầu bằng nhận định rằng nguyên tắc nền tảng của Trung Quốc trong xử lý các tranh chấp lãnh thổ là 'Gạt bất đồng để cùng phát triển'.
"Tuy nhiên, với tình hình hiện tại Nam Hải (Biển Đông), chúng ta đã luôn luôn 'gạt bất đồng' nhưng chưa đủ nỗ lực trong tham gia 'cùng phát triển'.
Không giống Philippines hay một số nước khác tìm phương cách luật pháp để xung đột với Trung Quốc, nhiều quốc gia lại dùng các biện pháp kín để lặng lẽ rút dần tài nguyên từ quần đảo Nam Sa (Trường Sa).
Chúng ta chỉ có thể đạt được một sự công nhận (chủ quyền) rõ ràng nếu thúc đẩy phát triển và khai thác nguồn tài nguyên ở Nam Hải.
Tàu ngầm TQ đang tiến về Trường Sa
Trung Quốc vẫn chưa có một giếng dầu hay mỏ khí nào ở Nam Hải
Theo ước tính của các cơ quan chức năng, trữ lượng dầu khí của khu vực bồn trũng chính ở Nam Hải là hàng chục tỷ tấn. Vào cuối thập niên 1990, các nước láng giềng đã hợp tác cùng các tập đoàn dầu khí quốc tế để khoan hơn một ngàn giếng trong vùng biển Nam Sa, phát hiện hơn 200 điểm có dầu khí và khai thác hơn 180 mỏ.
Các xung đột và tranh chấp trong Đông Hải và Nam Hải, cùng khủng hoảng qua eo biển Đài Loan tiếp tục làm mỗi con người Trung Quốc day dứt. Nói tương lai Trung Quốc nằm trong các vùng biển đảo là không hề phóng đại.
Năm 1999, sản lượng dầu hàng năm của các nước này đạt trên 40 triệu tấn và sản lượng khí đốt là 31 tỷ mét khối, tức lớn hơn sản lượng dầu khí ngoài khơi của Trung Quốc là 2,5 và 7 lần.
Tin cho hay, một nước chiếm nhiều đảo của Trung Quốc tại Nam Sa nhất đã chia vùng biển quanh quần đảo này thành hàng trăm lô mời thầu và tiếp tục ký hợp đồng với Hoa Kỳ, Nga, Pháp, Anh, Đức cùng các nước khác để thăm dò và khai thác dầu khí.
Mỗi năm, nước này thu nhập hơn 10 tỷ đôla từ dầu khí. Vào cuối 2004, Việt Nam đã xây đường băng trên đảo Trường Sa để phi cơ loại vừa có thể hạ cánh.
Vậy mà Trung Quốc vẫn chưa có lấy một giếng dầu hay mỏ khí nào hoạt động tại Nam Hải.
Một số nguồn tin trong ngành nói đó là vì hệ thống quyền lực cục bộ giữa giới chức trung ương và địa phương.
Tương lai của Trung Quốc nằm tại các vùng biển đảo
Không chú ý đúng mức tới các vùng biển đảo sẽ dẫn tới hậu quả trầm trọng. Chúng ta đã có bài học sâu sắc trong lĩnh vực này.
Tới nay, các xung đột và tranh chấp trong Đông Hải và Nam Hải, cùng khủng hoảng qua eo biển Đài Loan tiếp tục làm mỗi con người Trung Quốc day dứt.
Nói tương lai Trung Quốc nằm trong các vùng biển đảo là không hề phóng đại.
Không có nguồn lợi biển và không bảo đảm an ninh được cho các tuyến giao thương hàng hải, Trung Quốc sẽ dựa vào đâu để mà hồi sinh?
Tất cả chúng ta cần hiểu rõ tính cấp bách trong việc phát triển Nam Hải. Cần chạy đua với các nước láng giềng, áp dụng các chính sách ưu đãi đặc biệt, khuyến khích các địa phương và các công ty, các cá nhân để phát triển và khai thác nguồn dầu khí; nhằm tăng khí thế của toàn dân trong việc khai thác Nam Hải.
Thiết lập căn cứ quy mô lớn tại Nam Hải
Nguồn tài nguyên Nam Hải không chỉ giới hạn trong dầu và khí đốt, bởi vậy việc phát triển Nam Hải cần được hoạch định với tính toán và sử dụng các biện pháp đa dạng, cân nhắc mọi yếu tố.
Phát triển dầu và khí đốt phải là hoạt động chính trong bước tiếp theo.
Một căn cứ quy mô lớn phải được thiết lập tại Nam Hải, nơi mà vị trí chiến lược của tuyến hàng hải quốc tế phải được sử dụng để cung cấp các dịch vụ toàn diện cho các tàu của Trung Quốc và nước ngoài.
Căn cứ này sẽ là tiền đề cho sự hiện diện ngoài khơi của Trung Quốc trên thế giới.
Một khi dây chuyền hàng hải bao gồm các ngành đánh cá, sinh học biển, dầu khí, vận tải, du lịch dịch vụ vv.. được thiết lập, nó sẽ trở thành động lực kinh tế to lớn cho tỉnh Hải Nam và cả nước.
Khi đã có quan tâm lợi ích của cả nước, sự tham gia của hải quân là điều tất yếu.
Song song với việc phát triển nguồn tài nguyên Nam Hải, cần thiết lập căn cứ (quân sự) trên quần đảo Nam Sa, với các cơ sở dành cho máy bay, trực thăng và các loại hình tác chiến khác. Hải phận và không phận rộng lớn ở đây sẽ trở thành địa điểm huấn luyện quân sự... không chỉ bảo vệ phát triển kinh tế của toàn Nam Hải mà còn thúc đẩy hiện đại hóa quân đội.
Tác giả Đới Hy là đại tá không quân và là một nhà bình luận có tiếng về các vấn đề chiến lược. Tờ Hoàn cầu Thời báo là ấn bản bổ sung của cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc - Nhân dân Nhật báo, ra mỗi tuần hai lần bằng tiếng Trung.
Biển Đông chuẩn bị "nổi sóng" hay không?
Biển Đông sắp sửa nổi sóng hay không? Thưa quý bạn chúng ta nên theo dõi tin chuyển biến tại vùng này tốt hơn lại nghe phát biểu của "cái loa rĩ " VN :
VN phản ứng về quyết định của BP(BBC) BP đã có nhiều năm hoạt động tại VN tại Nam Côn Sơn
Một ngày sau khi tập đoàn dầu khí Anh British Petroleum (BP) xác nhận rút khỏi dự án thăm dò tại hai lô 5.2 và 5.3 ở bồn trũng Nam Côn Sơn, phía Việt Nam có phản ứng chính thức.Người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Dũng nói ông được biết 'quyết định này của BP là do các yếu tố thuần túy thương mại và kỹ thuật'.???
BP rút khỏi dự án thăm dò dầu khí ngoài khơi Việt Nam 20/03/2009
VOA: Hãng dầu khí BP của Anh sẽ rút khỏi dự án thăm dò khai thác dầu khí ở lô số 5,2 và 5.3 ngoài khơi Việt Nam.
Tin tức ngày thứ Sáu của Dow Jones trích lời một giới chức không nêu tên nói rằng quyết định này được đưa ra trong khi công ty xem xét lại kế hoạch kinh doanh.
Giới chức này nói thêm rằng BP Việt Nam đang thảo luận với PetroVietnam và các đối tác để xúc tiến việc rút khỏi dự án này trong năm 2009, tuy nhiên giới chức này không nêu thời biểu cụ thể.
Một giới chức PetroVietnam cho hay công ty BP và PetroVietnam cũng như công ty ConocoPhillips cùng khai thác dầu khí kể từ trước năm 2000.
BP là nhà sản xuất khí đốt nước ngoài lớn nhất ở Việt Nam, với hoạt động cung cấp 3 tỉ mét khối khí một năm từ Lô 06.1 ở Mỏ Nam Côn Sơn.
Theo phân tích gia tài chính Bùi Kiến Thành thì quyết định rút khỏi những lĩnh vực này của BP sẽ ảnh hưởng tới nỗ lực của Việt Nam trong việc gia tăng nguồn cung cấp khí thiên nhiên để thúc đẩy sản lượng năng lượng.
Ông Thành cho biết thêm là hai lô này nằm ở khu vực với điều khiện khó khăn cho việc sản xuất vì vậy chắc chắn cần có sự tham gia của các đối tác quốc tế lớn, nếu không có BP thì Việt Nam sẽ phải trì hoãn hoạt động đưa khí đốt vào bờ.
Tưởng cũng nên nhắc lại là hồi tháng Sáu năm 2007 BP cũng đã ngưng kế hoạch khảo sát Lô 5.2 do có tranh chấp về lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc và người phát ngôn của công ty lúc đó nói rằng BP phải ngưng kế hoạch khảo sát địa chất để chính phủ hai bên có cơ hội giải quyết vấn đề này...
Còn phía VN thời gian này thì động thái như thế nào? ngày 18 tháng 3
Hôm thứ tư, Bộ Ngoại giao Việt Nam cho hay Việt Nam đang 'theo dõi chặt chẽ 'tất cả các hoạt động của tàu tuần tra các hoạt động đánh cá của Trung Quốc hiện đang ở Biển Đông.
Tuyên bố này được đưa ra sau khi Trung Quốc điều tàu đến quần đảo Trường Sa hôm thứ Hai vừa qua.
Vì như chúng ta đã biêt sự kiện gây căng thẳng :
Hải quân Mỹ, TQ đối đầu trong vùng biển nam Trung Quốc
09/03/2009
Chính phủ Hoa Kỳ nói Trung Quốc vi phạm luật quốc tế trong một sự cố mới đây trên Biển Nam Trung Quốc.
Các quan chức quân sự Mỹ cho biết 3 chiếc tàu hải quân Trung Quốc và hai chiếc tàu lưới cá đã theo dõi chiếc Impeccable của hải quân Mỹ.
Chiếc tàu của Mỹ kéo theo các thiết bị sonar để quan sát tàu ngầm.
Tàu của Trung Quốc đã buộc chiếc Impeccable ngừng lại trên hải phận quốc tế ở vị trị cách đảo Hải Nam của Trung Quốc khoảng 120 kilômét...
Chuyên là Tàu không thể nào để HOa kỳ đặt chân vào biển Đông được nữa trong khi Hoa kỳ lại đem các thiết bị dò tìm tàu ngầm của Tàu cộng ở đây?
Hãng BP rút chân ra để Mỹ "nhảy vào " hay là đang tìm đường tránh trước một "biển Đông dậy sóng " đến nơi?
Đây là 1 vấn đề cho chúng ta suy nghĩ.
Tàu cộng liền cho đàn em dọa phóng hỏa tiễn đường dài để :
1 , đo lường phản ứng của Mỹ
2, giải tòa sức ép tại biển Đông
3, ra điều kiện đổi chác biển Đông và "mối đe dọa " Bắc Hàn ;
trong điều thứ 3 này chúng ta thấy thử tướng Bắc hàn Kim jong Il cùng cả phái đoàn tuỳ tùng dài lê thê đang đến Bắc kinh dự buổi lễ kỷ niệm 50 năm quan hệ Hàn Trung với không khí to lớn khác hẳn. Tàu cộng muốn cho phía Mỹ thấy dù Tàu cộng chưa tạo được liên minh Nga Trung nhưng liên minh Hàn Trung là thực tế cùng với lực lượng hỏa tiễn "tầm xa" của tên đàn em trung thành nhất là Bắc Hàn.
Bắc kinh còn bật đèn xanh cho Bắc hàn từ chối thẳng thừng viện trợ thực phẩm của MỸ điều này chứng tỏ Bắc kinh đã bảo đảm trước cho Bắc hàn trước chuyện quan trọng nhất cho Bắc hàn là chuyện bao tử tức là nguồn thực phẩm. Với khả năng của Bắc kinh hiện nay , chuyện bảo đảm viện trợ cho Bắc hàn dù "âm thầm " nhưng chúng ta tin rằng Bắc kinh có khả năng đó.
Cuối cùng canh bạc "biển Đông " hiện Mỹ và Tàu đang đâu trí với nhau.
Chỉ còn vài ngày nữa là qua đầu tháng 4 , thời điểm Bắc hàn dọa sẽ phóng hỏa tiễn tầm xa và phía Mỹ Nhật cũng khẳng định sẽ "bắn hạ ". Luận điệu hai bên đều quyết định ; vấn đề là Bắc kinh chắc chắn đang đứng sau lưng Bình Nhưỡng để "Stop" hay "tiến tới " luôn??? Và chuyên này đưa chúng ta tới 2 điều tiên đoán :
1, Bắc hàn có phóng hỏa tiễn đường dài thực sự hay không? và nếu phóng thì phía Mỹ Nhật có phóng ngăn không?
2 , Và chúng ta có khả năng đoán trước diễn biến sau sự kiện như điêu 1 thực sự xảy ra?
3,Tầm mức sau sự kiện hỏa tiễn đường dài Bắc hàn sẽ xảy ra thực sự nó sẽ lan tỏa đến biển Đông và phải chăng phía nào cũng vào thế "CƯỠI LƯNG CỌP "
chỉ còn 1 thời gian 10 ngày nữa cái hệ luỵ hỏa tiễn Bắc hàn hi vọng nó sẽ "cụp vòi " xuống thôi vì Biến Chứng của nó sẽ lan rộng chứ không phải tầm thường.
Có 1 điều chắc chắn là tóc của TT OBAMA đang thêm nhiều sợi bạc.
xin chào các bạn
xuân khê 21/3/09
24 March 2009
Làm rõ một số ý kiến tại cuộc Tọa đàm về bauxite
Trước hết tôi hoàn toàn đồng tình với đa số các ý kiến tại cuộc Tọa đàm đều cho rằng việc lựa chọn nhà thầu TQ vào Tây Nguyên là một nguy cơ rất lớn đối với an ninh quốc phòng.
Tôi được mời tham gia cuộc Tọa đàm về bauxite do VP TW tổ chức ngày 20/2/2009. Do thời lượng Tọa đàm có hạn, vì chưa có điều kiện phát biểu, chấp hành ý kiến chỉ đạo của đ/c Ngô Văn Dụ- chủ trì Tọa đàm, tôi xin được trình bày với Ban Bí thư và Văn phòng TW Đảng CSVN một số ý kiến như sau:
1/ Trước hết tôi hoàn toàn đồng tình với đa số các ý kiến tại cuộc Tọa đàm đều cho rằng việc lựa chọn nhà thầu TQ vào Tây Nguyên là một nguy cơ rất lớn đối với an ninh quốc phòng.
Trong các tham luận công khai, tôi cũng như các nhà khoa học đều hiểu, nhưng chưa nêu thẳng vấn đề: lựa chọn nhà thầu TQ là một sai lầm cố ý của TKV(Tập đoàn Than và Khoáng sản). Tôi xin nói rõ hơn như sau:
- Là cán bộ của TKV, đến nay tôi đã có kinh nghiệm (hiểu rõ cách đấu thầu) qua không ít hơn 6 cuộc đấu thầu quốc tế các dự án nhiệt điện chạy than của TKV khi tôi được giao trực tiếp tham gia (là giám đốc cty Tư vấn), hay quản lý (là trưởng ban điện lực) và phụ trách (là Tổng giám đốc cty nhiệt điện). Tôi có thể khẳng định, nếu đấu thầu một cách minh bạch, đúng luật, và với tiêu chí là lợi ích tối đa lâu dài của đất nước (chứ không phải của chủ đầu tư) thì không thể có một nhà thầu TQ nào có thể thắng thầu trong bất cứ dự án bauxite nào.
- Để chọn được nhà thầu TQ, TKV đã hạ rất thấp các tiêu chuẩn công nghệ trong đấu thầu, đã lựa chọn công nghệ thải bùn đỏ bằng công nghệ “ướt” rất lạc hậu và rất nguy hại cho môi trường mà cả thế giới đã không còn chấp nhận (ngay cả TQ, Nga và Ấn Độ cũng đang chuyển dần các nhà máy của mình từ công nghệ “ướt” sang công nghệ “khô”, các nước ở vùng nhiệt đới có mưa nhiều giống như Tây Nguyên cũng không áp dụng công nghệ này). Đây là một quyết định để dẫn tới việc chỉ các nhà thầu TQ có thể tham gia đấu thầu và có thể chào giá rất thấp (vì TQ đang có sẵn công nghệ, đang cần phải “bán sắt vụn” lại có dịp để “chuyển giao” sang VN).
- Việc nâng công suất nhà máy lên gấp 2 lần so với quy hoạch ban đầu và triển khai đồng loạt cả hai dự án lớn cũng được TKV làm theo “lời khuyên” của nhà thầu TQ, với lý do làm “nhỏ” thì các nhà thầu sẽ không tham gia. Thực tế cho thấy, tuy đã làm “lớn”, nhưng do cố tình lựa chọn công nghệ lạc hậu chỉ có ở TQ, nên cũng chẳng có nhà thầu nào khác (ngoài các nhà thầu TQ) tham gia đấu thầu.
Ngoài ra, tương tự như dự án luyện đồng Sinh Quyền, tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm alumina cũng rất quan trọng. Tôi e ngại rằng (để đấu thầu, giảm chi phí đầu tư), chất lượng sản phẩm alumina do TQ chào sẽ rất thấp để sau này TQ sẽ mua lại với giá rẻ mạt (như hiện đang mua loại đồng của Sinh Quyền). TQ không có công nghệ nguồn về nhôm, cũng phải đi nhập của các nước phát triển, còn sản phẩm alumina của TQ có chất lượng khác nhau và có tiêu chuẩn thấp hơn so với của các nước phát triển.
2/Về ý kiến cho rằng cần phát triển bauxite hơn phát triển cây công nghiệp (của các đ/c Hoàng Sĩ Sơn- phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng và Phan Tuấn Pha- Bí thư tỉnh uỷ Đắk Nông)
Cả hai đ/c đại diện cho Đảng bộ và UBND các tỉnh có dự án bauxite đều phát biểu ủng hộ tiếp tục triển khai các dự án bauxite vì hai lý do chính: (i) bauxite có lợi thế hơn sản phẩm nông nghiệp (cà phê, chè, điều, cau su) vì giá bán sản phẩm nông nghiệp rất biến động; và (ii) nếu không khai thác bauxite thì (bauxite vẫn chỉ là đất), 20-30 năm nữa con cháu chúng ta sẽ phê phán chúng ta tại sao không khai thác!
(i) Trước hết, tôi cho rằng cả hai ý kiến này đều không chính xác, và nếu xem xét kỹ thì đây là những ý kiến phản khoa học, do thiếu thông tin. Bauxite gắn chặt với vùng đất đỏ bazan trên Tây Nguyên là tài nguyên khoáng sản có hạn, không tái sinh, còn cây công nghiệp là nguồn tài nguyên vô hạn, có tái sinh (nhờ được trồng trên đất bazan tài sản vô giá của quốc gia này). Thế mạnh cạnh tranh cốt lõi của Tây Nguyên là đất đỏ bazan. Phát triển cây công nghiệp góp phần duy trì và làm tăng thêm mầu xanh cho môi trường, giảm các nguy cơ như lũ ống, lũ quyét, hạn hán kéo dài, duy trì và phát huy được thế mạnh của đất đỏ bazan. Còn khai thác bauxite sẽ làm mất đi thế mạnh của Tây Nguyên, huỷ diệt mầu xanh, làm thay đổi thổ nhưỡng của vùng đất đỏ bazan, làm tăng thêm nguy cơ về hạn hán kéo dài, lũ ống, lũ quyét xẩy ra nhiều hơn. Nếu tiếp tục cho phát triển các dự án bauxite như cách làm hiện nay, về lâu dài cái giá phải trả của VN là không phát triển được cây công nghiệp trên vùng Tây Nguyên (do sẽ thiếu nước ngọt, thổ nhưỡng đất bazan thay đổi) và có nguy cơ còn làm mất và ô nhiễm nguồn nước ngọt để phát triển kinh tế cho các tỉnh vùng hạ lưu (Đồng Nai, Bình Dương, TP. HCM v.v.).
(ii) Giá bán sản phẩm nông nghiệp tuy có biến động nhưng nhu cầu tiêu dùng của cả loài người về cà phê, chè, đều là ổn định, được tiêu thụ ở rất nhiều nước, không có sản phẩm thay thế. Giá bán sản phẩm bauxite biến động rất lớn, nhu cầu của TG cũng thay đổi và chỉ được sử dụng chủ yếu tập trung ở một số nước có ngành chế tạo xe hơi và máy bay như Mỹ, Nhật, Đức, Nga, TQ. Tôi xin cập nhật những thông tin gần đây nhất: giá bán nhôm trên Thị trường Giao dịch Kim loại Luân Đôn (LME) dao động rất lớn, giá thấp nhất 1040U$/tấn (1993) và cao nhất lên tới 3249 U$/tấn (2006). Chỉ từ tháng 7/2008 đến tháng 10/2008 giá nhôm tại LME đã giảm từ 3300 xuống còn 1885 rồi 1500 U$/tấn. Theo đánh giá của các chuyên gia về nhôm, hiện nay giá bán hòa vốn đối với 75% các nhà máy phải là 2500U$/tấn trong khi giá thành sản xuất bình quân của thế giới 2700-3200U$/tấn. Vì thế các nước đã và đang tiếp tục cắt giảm sản lượng (chỉ tính riêng năm 2008: TQ đã cắt giảm 18% sản lượng nhôm tương đương với công suất 3,22-3,70 triệu tấn/năm, 10% sản lượng alumina; tập đoàn Alcoa của Mỹ đã giảm 18% sản lượng nhôm tương đương với 3,5 triệu tấn/năm; Brazin giảm tới 40% sản lượng nhôm; Nga- giảm 25%, Tadzickistan (thuộc LX cũ)- 10% v.v.). Trong các năm tới thị trường và giá bán của sản phẩm bauxite sẽ còn tiếp tục biến động theo chiều hướng xấu đi: dự báo năm 2009, nhu cầu alumina của TQ chỉ có 27,83 tr. tấn, trong khi tổng công suất của các nhà máy sản xuất lên tới 32,97 tr.tấn (thừa 5,14 tr.tấn).
(iii) Về ý kiến (của tỉnh Đắc Nông) cho rằng cần khai thác bauxite ngay bây giờ chứ không để giành cho thế hệ sau, “nếu không khai thác thì bauxite cũng chỉ là đất thôi”: đây cũng là ý kiến phản khoa học và ngắn về tầm nhìn. Tôi xin báo cáo như sau:
- Nếu hiện nay chúng ta sớm phát triển ngành công nghiệp bauxite-nhôm, thì chúng ta phải đối mặt với một bất cập rất lớn không thể vượt qua là thiếu điện giá rẻ. Trên thế giới các nước đều gắn nhôm với thuỷ điện, vì chỉ có thuỷ điện mới cho giá rẻ (dưới 3cents/kWh) trong khi tỷ trọng chi phí về điện trong chi phí sản xuất nhôm rất cao (chiếm tới 40-65%). Gần đây, Ngân hàng xuất nhập khẩu TQ đã phải cho vay bù lãi suất tới 2-3%/năm để một công ty nhôm của TQ đầu tư 3,2 tỷ U$ xây dựng nhà máy nhôm ở Mã Lai vì hai lý do: (i)Khuyến khích việc đưa các dự án nhôm tiêu hao nhiều điện năng ra nước ngoài (trong khi TQ cũng không phải thiếu điện trầm trọng như VN); (ii) Nhà máy nhôm này (do TQ nắm không ít hơn 50%) được quyền mua toàn bộ sản lượng điện của nhà máy thuỷ diện Bakun công suất 2400MW sẽ được Mã Lai xây dựng ở tỉnh Saravac với giá bán điện chỉ có 2 cents/kWh. Dự án thuỷ điện này cũng do một tổng công ty nhà nước khác của TQ là Sinohydro xây dựng. Toàn bộ sản phẩm nhôm sẽ được bán lại cho TQ. Các tập đoàn nhôm UC Ruasal (Nga) và Alcoal (Mỹ) cũng coi việc đầu tư vào các nhà máy thuỷ điện để có được nguồn điện lớn với giá rẻ là ưu tiên số 1 trong hoạt động của mình. Toàn bộ tiềm năng về thuỷ điện của các tỉnh Tây Nguyên, nếu được khai thác hết cũng chỉ tương đương với dự án nói trên của Mã Lai.
- Nếu sau 20-30 năm nữa chúng ta mới phát triển ngành công nghiệp nhôm, thì con cháu chúng ta sẽ không “phê phán chúng ta là dốt”, như ý kiến của đ/c bí thư tỉnh Đắc Nông, ngược lại, thế hệ mai sau sẽ phải cám ơn chúng ta là đã rất thông minh, có tầm nhìn xa về khoa học công nghệ.
Nhân đây tôi xin nói rõ hơn:
+Tại cuộc hội thảo đầu tiên về bauxite ở Đắk Nông tháng 12/2007 do tỉnh Đắt Nông và TKV tổ chức, trong tham luận của mình tôi đã lưu ý đến bom Napal- là một loại bom cháy, có sức huỷ diệt cao là một phát minh của Đại học Ha Vớt Hoa Kỳ, rất có hại trong chiến tranh, nhưng rất có ích trong phát triển kinh tế.
Tỉ trọng phân bố trữ lượng bô-xít Việt Nam
theo vùng (Nguồn: TKV)
+Theo dự báo của các nhà khoa học, sau 20-30 năm nữa, trình độ khoa học công nghệ (trong đó có các công nghệ về hóa-lý) sẽ cho phép chúng ta áp dụng phát minh trên của Đại học Ha Vớt trong việc đảm bảo an ninh năng lượng. Kim loại nhôm sẽ được sử dụng để phát điện (có thể thay cho dầu mỏ, khí đốt và than đá hay uranium đang dần cạn kiệt) với hiệu suất rất cao. Theo tính toán của các nhà khoa học, để sản xuất ra 1 “đơn vị nhôm”, chúng ta cần 1 “đơn vị năng lượng” (đơn vị này hiện nay rất lớn). Nhưng sau 20-30 năm nữa, trình độ công nghệ cho phép thực hiện qui trình ngược lại, từ 1 “đơn vị nhôm” chúng ta có thể sản xuất ra được gần 2 “đơn vị năng lượng” dựa trên nguyên lý hoạt động của bom Napal (phản ứng ô xy hóa của kim loại nhôm tinh khiết cho phép chúng ta thu được một lượng nhiệt rất lớn).
+Ngoài ra hiện nay ô xít nhôm Al2O3 (là alumina- sản phẩm của các dự án bauxite Tây Nguyên để xuất khẩu) mới chỉ được dùng làm nguyên liệu thô cho ngành luyện nhôm và sản xuất một số hóa chất đơn giản khác. Nhưng trong tương lai, cũng như các loại ô xít kim loại khác sẽ được sử dụng để khử khí thải CO2 trong các nhà máy nhiệt điện để thu được khí CO (là một dạng khí cháy, có nhiệt năng cao) có thể tái sử dụng lại ngay cho chính các nhà máy nhiệt điện hay cho các lò hơi công nghiệp. Trên thế giới hiện nay đã có rất nhiều thành tựu (bản quyền và bí quyết công nghệ) trong vấn đề này (chủ yếu cũng là của Mỹ).
+Trên quan điểm khoa học và công nghệ, Đảng ta đã rất sáng suốt khi trong Báo cáo chính trị của Đại hội X đã bỏ cụm từ “
khai thác bô-xít và sản xuất alumin
” ra khỏi danh mục các sản phẩm cần được hỗ trợ đầu tư phát triển, thay vào đó, đã khẳng định “Khẩn trương thu hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện một số dự án quan trọng về khai thác dầu khí, lọc dầu và hóa dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Có chính sách hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô”. Tôi cho rằng, ý kiến của đ/c Bí thư tỉnh Uỷ Đắk Nông tại cuộc Tọa đàm là không có tính khoa học và càng không phù hợp với tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
3/Về ý kiến cho rằng công nghệ của TQ là tốt:
Tại cuộc Hội thảo do Liên hiệp các hội KHKT VN (VUSTA) tổ chức ngày 19/1/1009 vừa qua, trong Báo cáo của mình tôi đã nêu rõ một ví dụ về công nghệ lạc hậu, không hiệu quả (công nghệ luyện đồng) mà TQ mới chuyển giao cho TKV trong dự án đồng Sinh Quyền gần đây. Tôi cho rằng không cần nhắc lại.
Nhân đây tôi chỉ muốn nhấn mạnh thêm:
Những nhà máy alumina phía Nam TQ (mà TKV đã tổ chức cho một số cán bộ ngoài TKV đi thăm quan) sử dụng loại bô xít (sa khoáng) khác hẳn với bô xít của Tây Nguyên (phong hóa) về nguồn gốc. Quá trình sản xuất alumina thực chất là các quá trình hóa-lý. Việc lựa chọn công nghệ phải dựa trên kết quả phân tích về thành phần thạch học và thành phần hóa học của quặng chứ không thể sao chép “copy” và đánh giá công nghệ bằng mắt thường. Ngoài ra, chất lượng quặng bauxite của VN (tuy chưa có được đánh giá chi tiết, nhưng) căn cứ vào các thông tin hiện có, thì không cao, đòi hỏi phải tuyển để nâng cao chất lượng trước khi áp dụng công nghệ Bayer.
4/ Về ý kiến cho rằng khai thác bauxite sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và không chiếm nhiều đất canh tác của các tỉnh Tây Nguyên:
- Trước hết, về kinh tế, các nhà khoa học đều khẳng định điều ngược lại. Rất may, lần nào, theo báo cáo tại cuộc Tọa đàm của chính đ/c Hoàng Sĩ Sơn- phó Chủ tịch tỉnh Lâm Đồng, các dự án bauxite hàng năm chỉ đóng góp 120-150 tỷ đồng cho ngân sách địa phương chứ không phải 1500-2000 tỷ (được phóng đại lên 10 lần) như trả lời trên báo của đ/c Chủ tịch tỉnh Đắk Nông. Thực ra mức đóng góp này là không tương xứng so với số tiền rất lớn VN phải đi vay để đầu tư, và thấp hơn nhiều nếu chúng ta đầu tư vào mục đích khác, không phải là bauxite.
- Về diện tích chiếm đất, tuy diện tích không lớn so với toàn vùng lãnh thổ của Tây Nguyên, nhưng diện tích đất bị các dự án chiếm dụng vĩnh viễn lại là những nơi có giá trị canh tác cao, và (theo báo cáo của sở TNMT Đắk Nông) lớn hơn nhiều lần diện tích được tạo ra hàng năm (so với thành tích mở rộng khai hoang, trồng rừng) của các địa phương này.
5/Về nội dung bức thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp:
Tôi cho rằng ý kiến của đ/c Chủ tịch VUSTA (Hồ Uy Liêm) nêu trong Tọa đàm (đã không đại diện cho các nhà khoa học) là rất khiếm nhã. Tôi nghĩ cá nhân đ/c Hồ Uy Liêm cần chính thức xin lỗi Đại Tướng về lời phát biểu gây nghi ngờ nội dung bức thư.
Tôi hoàn toàn ủng hộ và thêm cảm phục Đại Tướng về bức thư đầy tâm huyết và đầy trách nhiệm
đó. Bản thân tôi đã từng làm đại diện cho Bộ Mỏ và Than của VN làm việc tại Ban Thư ký của COMECON trong cùng thời gian phía Chính Phủ VN đưa dự án bô-xít Tây Nguyên vào Chương trình hợp tác đa biên của COMECON (ngoài tôi, khi đó còn có nhiều người khác chứng kiến như các anh Dương Đức Ưng- đại diện cho Bộ Cơ khí Luyện Kim (nay là Bộ Công thương), Lê Dũng- đại diện cho UB KHKT (nay là Bộ Khoa học công nghệ) v.v.). Chúng tôi có đủ thông tin và điều kiện để tìm hiểu dự án này. Những vấn đề Đại tướng đã nêu trong thư là hoàn toàn chính xác. Khi đó (và cả bây giờ), Liên Xô và các nước thành viên COMECON rất cần bô-xít của VN để luyện nhôm cung cấp cho ngành chế tạo xe hơi, máy bay, và trang thiết bị quân sự-quốc phòng. Liên Xô (cũ) không cần chè của VN (khi đó người dân LX chỉ dùng chè của Ấn Độ hay của Srilanca), mà chỉ cần bô-xit của VN, những vẫn khuyên VN không phát triển dự án bô-xít mà phát triển các nông trường chè.
6/Về nhiều ý kiến cho rằng bài tham luận của TKV là “rất hay nhưng khó tin”.
Nhân đây, tôi cũng xin bình luận thêm như sau:
- Trước hết, có thể thống nhất một điều là: VN lần đầu tiên triển khai các dự án bauxite, chưa có kinh nghiệm thực tế, nên những vấn đề đang được nêu ra đều chỉ nằm trên giấy (kể cả nhận định của Bộ Công thương, hay cam kết của TKV), còn dừng ở mức độ lý thuyết, dựa trên các thông tin trên TG (của các nhà khoa học) đều chưa được thực tế chứng minh đúng/sai . Điều có thể ai cũng đã nhận ra là tính rủi ro (về mọi mặt: công nghệ, kỹ thuật, môi trường, an ninh, quốc phòng, v.v...) trên thực tế quá cao, còn những giải pháp mới chỉ là "khẩu hiệu".
- Bản thân tôi là một cán bộ làm việc ở TKV từ khi TKV mới được thành lâp đến nay (hiện nay tôi được giao giữ chức Giám đốc Công ty Năng lượng Sông Hồng -TKV, là chi nhánh của TKV tại Hưng Yên để phát triển bể than Đồng bằng sông Hồng), tôi cũng cho rằng những "giải pháp" của TKV không có cơ sở khoa học, mới chỉ dừng lại ở mức độ nói về vấn đề bùn đỏ (có độ pH cao), TKV cam kết là không nguy hại, có thể xử lý được. Nhưng, như trên tôi đã nêu, bùn đỏ sẽ ít nguy hiểm khi được xử lý bằng công nghệ thải "khô", còn với công nghệ thải "ướt" như TKV và các nhà thầu TQ đang áp dụng ở Tây Nguyên (chất lỏng 54,4%, chất rắn 45,6%) thì lại rất nguy hại bởi các lý do sau: (i) "Khô" có nghĩa là ít chất sút ăn da lẫn trong bùn đỏ; (ii) Nếu thải "khô", các thành phần cỡ hạt khác nhau của bùn đỏ sẽ đông cứng lại thành chất rắn, ít nguy hại nếu bị trôi lấp. Còn "ướt" thì dung dịch bùn đỏ sẽ phân ly thành nhiều pha với các cỡ hạt khác nhau, trong đó có pha cỡ hạt siêu nhỏ gồm các kim loại nặng độc hại sẽ ngấm xuống đất, còn các pha cỡ hạt lớn lại không thể liên kết lại với nhau khi gặp mưa rất nguy hiểm, dễ bị trôi lấp; (iii) Với công nghệ "khô" thì các đập chắn của các hồ bùn đỏ không phải chịu lực, chỉ có chức năng "chắn". Ngược lại, với công nghệ thải "ướt", các đập của hồ bùn đỏ (theo lựa chọn của TKV cao tới 25m, dài 282m, nằm trên độ cao 850m so với mực nước biển) sẽ giống như các đập hồ thuỷ điện, phải chịu lực do áp lực thuỷ tĩnh của bùn đỏ ướt tạo ra, nên kém an toàn.
- TKV nói sẽ rất coi trọng vấn đề xử lý vấn đề bùn đỏ theo tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên trên thực tế, vì lợi ích của chủ đầu tư, các thiết kế hồ bùn đỏ đều lấy theo tiêu chuẩn GB của TQ. Với qui mô hồ thải bùn đỏ lớn như của TKV (rộng 116ha), các nước trên thế giới phải đầu tư hàng trăm triệu US$, trong khi hồ bùn đỏ của TKV do TQ thiết kế có mức đầu tư ít hơn nhiều lần. Thực tế các dự án nhiệt điện của TKV do các nhà thầu TQ thực hiện đã cho thất, các tiêu chuẩn GB của TQ thường thấp hơn nhiều so với của các nước khác, trong khi đó các nhà thầu TQ thường hay "nói một đằng làm một nẻo", càng không ai dám tin.
- Vấn đề hoàn thổ và bảo vệ môi trường trong khai thác bauxie: mọi người đều hiểu rất rõ thực trạng môi trường của vùng Quảng Ninh hiện nay như thế nào!
- Một điều nữa không thể không làm các đại biểu nghi ngờ là: (i) Tác giả của những bài trình diền, tham luận đó của TKV là anh Nguyễn Chí Quang - người đã từng bị Thanh tra Chính Phủ yêu cầu TKV buộc thôi việc trong dịp Thanh tra CP làm việc với TVN năm 1999-2000. Sau khi bị sa thải, thời gian gần đây, anh Quang lại đích thân Chủ tịch HĐQT TKV nhận làm "cố vấn riêng" cho cá nhân Chủ tịch HĐQT. Mặc dù vậy, trong các giao dịch, anh Quang vẫn tự coi mình là cố vấn của HĐQT TKV, cũng có mặt cùng Chủ tịch HĐQT để báo cáo trong nhiều cuộc hội thảo và công khai phát biểu dưới tư cách là "đại diện cho TKV"; (ii) Các chuyên gia giỏi có kinh nghiệm và trình độ thực sự về bauxie-nhôm trước đây (khi làm việc với COMECON, như Hoàng Kim Phú, Tô Ngọc Thái, Nguyễn Hoàng Ban v.v.) thì không được TKV sử dụng, trong khi TKV lại tích cực sử dụng một kỹ sư đã về hưu là Dương Thanh Sùng - người được đánh giá (công khai tại hội thảo của VUSTA) là chỉ thuộc loại "chai lọ" trong lĩnh vực bauxite-nhôm. Chính vì sự mập mờ này đã làm cho nhiều người (ngay cả trong TKV và cả bản thân Đại Tướng) không thể tin cậy vào những gì "TKV nói".
7/ Về thái độ tiếp thu ý kiến của TKV:
Gần đây tôi nhận được công văn "MẬT" của Đảng uỷ TKV gửi cho cá nhân tôi với nột dung hình như là tôi đang bị mắc lừa các thế lực phản động hay đang chống lại nghị quyết của Đảng vì đã có những phát biểu chống lại các dự án bô-xít của TKV. Tôi rất bất bình về nội dung công văn này. TKV không những không tiếp thu ý kiến của tôi (trong khi TKV chưa có ý kiến nào để phản bác và dư luận rộng rãi đều đồng tình ủng hộ ý kiến của tôi, nhưng Đảng uỷ TKV lại có văn bản mang tính răn đe theo kiểu "cả vú lấp miệng em" như vậy là không thể chấp nhận được. Nhân đây, tôi xin chính thức báo cáo với Ban Bí thư cũng như VP TW Đảng về vấn đề này như sau:
- Từ trước khi thủ tướng phê duyệt quy hoạch bô-xít, tôi đã viết nhiều bài báo khoa học phân tích tính không khả thi của các dự án bauxite đăng trên các tạp chí của VN. Sau khi Thủ tướng ban hành Quyết định số 167/2007/QĐ-TTg ngày 01/11/2007, tôi được mời tham luận tại cuộc Hội thảo đầu tiên ở Đắk Nông (12/2007) đến nay, tôi (tuy đang hưởng lương do TKV trả) vẫn đã và đang chính thức phát biểu công khai, minh bạch ý kiến của cá nhân tôi với tư cách là một cán bộ KHKT phản đối việc triển khai các dự án bauxite trên Tây Nguyên.
- Đây không phải là lần đầu tiên tôi phải đối các việc làm của TKV hay của Bộ Năng lượng (cũ). Những ý kiến phản đối của tôi trước đây được cho là "trái" với các quyết định của TKV, và của Bộ NL đến nay đều được thời gian chứng minh là hoàn toàn đúng đắn (như việc chấm thầu không đúng của dự án điện Na Dương, việc sửa đổi hồ sơ mời thầu có lợi cho nhà thầu trong các dự án điện, việc di chuyển nhà sàng Hòn Gai ra địa điểm Nam Cầu trắng, việc gia tăng qua mức sản lượng than của các mỏ để xuất khẩu cho TQ, v.v..)
- Cũng chính vì "trung ngôn thì nghịch nhĩ" tôi đã từng "được" TKV "xử lý" theo cách áp đặt cho luân chuyển công tác theo tiêu chí việc gì đang làm tốt thì không cho làm nữa, giao cho việc mới khó hơn, để nhường chỗ cho những "trung thần" chỉ biết làm theo.
- Bản thân tôi, là một cán bộ KHKT được Đảng và Nhà nước ưu tiên cho đi đào tạo nhiều lần ở nước ngoài, là một Đảng viên ĐCSVN (tôi được kết nạp tại chi bộ Vụ Kế hoạch Bộ Mỏ và Than từ 1983), tôi luôn sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, đúng lương tri, phục vụ suốt đời cho sự nghiệp của Đảng và dân tộc, chứ không phải chỉ biết làm theo ý đồ và phục vụ cho lợi ích của một nhóm người. Bố đẻ tôi là Đảng viên, cán bộ tiền khởi nghĩa, Huân chương kháng chiến hạng Nhất và hạng Ba, Huy hiệu 60 năm tuổi đảng, Huy hiệu các chiến sĩ bị địch bắt tù đầy đã giáo dục tôi hiểu rõ thế lực phản động là ai và mình cần phải làm gì.
- Tôi không cần phải được Đảng Uỷ TKV nhắc nhở về việc tôn trọng pháp luật, trong khi TKV đã cố tình lợi dụng cơ quan ngôn luận của mình (Tạp chí Than-Khoáng sản VN) để công khai vi phạm Luật báo chí, tung tin sai sự thật, bôi nhọ danh dự của tập thể công ty do tôi phụ trách (đúng vào dịp tôi đang bận dự thảo về bauxite ở Đắk Nông)
8/ Về Hội thảo sắp tới do Chính Phủ sẽ tổ chức:
(i) Tôi cho rằng cần được chuẩn bị kỹ và phải có đủ thời lượng cần thiết, tạo được tính công khai, dân chủ, tránh hình thức vội chụp mũ;
(ii) Nội dung Hội thảo nên tập chung ưu tiên bàn kỹ về tính khả thi về kinh tế, đánh giá hiệu quả kinh tế đầy đủ; và
(iii) Để tiết kiệm thời lượng cho việc trao đổi đầy đủ có lẽ không nên mời các đối tác nước ngoài tham dự vì có nhiều vấn đề tế nhị và nhậy cảm.
Kinh nghiệm cho thấy tại hội thảo 10/2008 ở Đắk Nông vừa qua, các đối tác nước ngoài chỉ lợi dụng thời lượng của hội thảo để làm marketing và quảng bá cho bản thân họ. Còn trên thực tế họ làm như thế nào thì phía VN (Bộ Cơ khí luyện kim trước kia và TKV ngày nay) đã đi xem, thăm quan, khảo sát gần như khắp TG rồi. Nếu đã mời đối tác nước ngoài, cần mời đầy đủ cả các đối tác cũng đã từng khuyên chúng ta không nên làm ồ ạt như hiện nay (như nhà thầu của Pháp).
TS. Nguyễn Thành Sơn
Nguồn: “Báo cáo V/v làm rõ một số ý kiến tại cuộc Tọa đàm về bauxite ngày 20/2/2009” gửi: Trương Tấn Sang (UV Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư) và Ngô Văn Dụ (Bí thư TW Đảng CSVN, Chánh Văn phòng TW Đảng)
Tôi được mời tham gia cuộc Tọa đàm về bauxite do VP TW tổ chức ngày 20/2/2009. Do thời lượng Tọa đàm có hạn, vì chưa có điều kiện phát biểu, chấp hành ý kiến chỉ đạo của đ/c Ngô Văn Dụ- chủ trì Tọa đàm, tôi xin được trình bày với Ban Bí thư và Văn phòng TW Đảng CSVN một số ý kiến như sau:
1/ Trước hết tôi hoàn toàn đồng tình với đa số các ý kiến tại cuộc Tọa đàm đều cho rằng việc lựa chọn nhà thầu TQ vào Tây Nguyên là một nguy cơ rất lớn đối với an ninh quốc phòng.
Trong các tham luận công khai, tôi cũng như các nhà khoa học đều hiểu, nhưng chưa nêu thẳng vấn đề: lựa chọn nhà thầu TQ là một sai lầm cố ý của TKV(Tập đoàn Than và Khoáng sản). Tôi xin nói rõ hơn như sau:
- Là cán bộ của TKV, đến nay tôi đã có kinh nghiệm (hiểu rõ cách đấu thầu) qua không ít hơn 6 cuộc đấu thầu quốc tế các dự án nhiệt điện chạy than của TKV khi tôi được giao trực tiếp tham gia (là giám đốc cty Tư vấn), hay quản lý (là trưởng ban điện lực) và phụ trách (là Tổng giám đốc cty nhiệt điện). Tôi có thể khẳng định, nếu đấu thầu một cách minh bạch, đúng luật, và với tiêu chí là lợi ích tối đa lâu dài của đất nước (chứ không phải của chủ đầu tư) thì không thể có một nhà thầu TQ nào có thể thắng thầu trong bất cứ dự án bauxite nào.
- Để chọn được nhà thầu TQ, TKV đã hạ rất thấp các tiêu chuẩn công nghệ trong đấu thầu, đã lựa chọn công nghệ thải bùn đỏ bằng công nghệ “ướt” rất lạc hậu và rất nguy hại cho môi trường mà cả thế giới đã không còn chấp nhận (ngay cả TQ, Nga và Ấn Độ cũng đang chuyển dần các nhà máy của mình từ công nghệ “ướt” sang công nghệ “khô”, các nước ở vùng nhiệt đới có mưa nhiều giống như Tây Nguyên cũng không áp dụng công nghệ này). Đây là một quyết định để dẫn tới việc chỉ các nhà thầu TQ có thể tham gia đấu thầu và có thể chào giá rất thấp (vì TQ đang có sẵn công nghệ, đang cần phải “bán sắt vụn” lại có dịp để “chuyển giao” sang VN).
- Việc nâng công suất nhà máy lên gấp 2 lần so với quy hoạch ban đầu và triển khai đồng loạt cả hai dự án lớn cũng được TKV làm theo “lời khuyên” của nhà thầu TQ, với lý do làm “nhỏ” thì các nhà thầu sẽ không tham gia. Thực tế cho thấy, tuy đã làm “lớn”, nhưng do cố tình lựa chọn công nghệ lạc hậu chỉ có ở TQ, nên cũng chẳng có nhà thầu nào khác (ngoài các nhà thầu TQ) tham gia đấu thầu.
Ngoài ra, tương tự như dự án luyện đồng Sinh Quyền, tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm alumina cũng rất quan trọng. Tôi e ngại rằng (để đấu thầu, giảm chi phí đầu tư), chất lượng sản phẩm alumina do TQ chào sẽ rất thấp để sau này TQ sẽ mua lại với giá rẻ mạt (như hiện đang mua loại đồng của Sinh Quyền). TQ không có công nghệ nguồn về nhôm, cũng phải đi nhập của các nước phát triển, còn sản phẩm alumina của TQ có chất lượng khác nhau và có tiêu chuẩn thấp hơn so với của các nước phát triển.
2/Về ý kiến cho rằng cần phát triển bauxite hơn phát triển cây công nghiệp (của các đ/c Hoàng Sĩ Sơn- phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng và Phan Tuấn Pha- Bí thư tỉnh uỷ Đắk Nông)
Cả hai đ/c đại diện cho Đảng bộ và UBND các tỉnh có dự án bauxite đều phát biểu ủng hộ tiếp tục triển khai các dự án bauxite vì hai lý do chính: (i) bauxite có lợi thế hơn sản phẩm nông nghiệp (cà phê, chè, điều, cau su) vì giá bán sản phẩm nông nghiệp rất biến động; và (ii) nếu không khai thác bauxite thì (bauxite vẫn chỉ là đất), 20-30 năm nữa con cháu chúng ta sẽ phê phán chúng ta tại sao không khai thác!
(i) Trước hết, tôi cho rằng cả hai ý kiến này đều không chính xác, và nếu xem xét kỹ thì đây là những ý kiến phản khoa học, do thiếu thông tin. Bauxite gắn chặt với vùng đất đỏ bazan trên Tây Nguyên là tài nguyên khoáng sản có hạn, không tái sinh, còn cây công nghiệp là nguồn tài nguyên vô hạn, có tái sinh (nhờ được trồng trên đất bazan tài sản vô giá của quốc gia này). Thế mạnh cạnh tranh cốt lõi của Tây Nguyên là đất đỏ bazan. Phát triển cây công nghiệp góp phần duy trì và làm tăng thêm mầu xanh cho môi trường, giảm các nguy cơ như lũ ống, lũ quyét, hạn hán kéo dài, duy trì và phát huy được thế mạnh của đất đỏ bazan. Còn khai thác bauxite sẽ làm mất đi thế mạnh của Tây Nguyên, huỷ diệt mầu xanh, làm thay đổi thổ nhưỡng của vùng đất đỏ bazan, làm tăng thêm nguy cơ về hạn hán kéo dài, lũ ống, lũ quyét xẩy ra nhiều hơn. Nếu tiếp tục cho phát triển các dự án bauxite như cách làm hiện nay, về lâu dài cái giá phải trả của VN là không phát triển được cây công nghiệp trên vùng Tây Nguyên (do sẽ thiếu nước ngọt, thổ nhưỡng đất bazan thay đổi) và có nguy cơ còn làm mất và ô nhiễm nguồn nước ngọt để phát triển kinh tế cho các tỉnh vùng hạ lưu (Đồng Nai, Bình Dương, TP. HCM v.v.).
(ii) Giá bán sản phẩm nông nghiệp tuy có biến động nhưng nhu cầu tiêu dùng của cả loài người về cà phê, chè, đều là ổn định, được tiêu thụ ở rất nhiều nước, không có sản phẩm thay thế. Giá bán sản phẩm bauxite biến động rất lớn, nhu cầu của TG cũng thay đổi và chỉ được sử dụng chủ yếu tập trung ở một số nước có ngành chế tạo xe hơi và máy bay như Mỹ, Nhật, Đức, Nga, TQ. Tôi xin cập nhật những thông tin gần đây nhất: giá bán nhôm trên Thị trường Giao dịch Kim loại Luân Đôn (LME) dao động rất lớn, giá thấp nhất 1040U$/tấn (1993) và cao nhất lên tới 3249 U$/tấn (2006). Chỉ từ tháng 7/2008 đến tháng 10/2008 giá nhôm tại LME đã giảm từ 3300 xuống còn 1885 rồi 1500 U$/tấn. Theo đánh giá của các chuyên gia về nhôm, hiện nay giá bán hòa vốn đối với 75% các nhà máy phải là 2500U$/tấn trong khi giá thành sản xuất bình quân của thế giới 2700-3200U$/tấn. Vì thế các nước đã và đang tiếp tục cắt giảm sản lượng (chỉ tính riêng năm 2008: TQ đã cắt giảm 18% sản lượng nhôm tương đương với công suất 3,22-3,70 triệu tấn/năm, 10% sản lượng alumina; tập đoàn Alcoa của Mỹ đã giảm 18% sản lượng nhôm tương đương với 3,5 triệu tấn/năm; Brazin giảm tới 40% sản lượng nhôm; Nga- giảm 25%, Tadzickistan (thuộc LX cũ)- 10% v.v.). Trong các năm tới thị trường và giá bán của sản phẩm bauxite sẽ còn tiếp tục biến động theo chiều hướng xấu đi: dự báo năm 2009, nhu cầu alumina của TQ chỉ có 27,83 tr. tấn, trong khi tổng công suất của các nhà máy sản xuất lên tới 32,97 tr.tấn (thừa 5,14 tr.tấn).
(iii) Về ý kiến (của tỉnh Đắc Nông) cho rằng cần khai thác bauxite ngay bây giờ chứ không để giành cho thế hệ sau, “nếu không khai thác thì bauxite cũng chỉ là đất thôi”: đây cũng là ý kiến phản khoa học và ngắn về tầm nhìn. Tôi xin báo cáo như sau:
- Nếu hiện nay chúng ta sớm phát triển ngành công nghiệp bauxite-nhôm, thì chúng ta phải đối mặt với một bất cập rất lớn không thể vượt qua là thiếu điện giá rẻ. Trên thế giới các nước đều gắn nhôm với thuỷ điện, vì chỉ có thuỷ điện mới cho giá rẻ (dưới 3cents/kWh) trong khi tỷ trọng chi phí về điện trong chi phí sản xuất nhôm rất cao (chiếm tới 40-65%). Gần đây, Ngân hàng xuất nhập khẩu TQ đã phải cho vay bù lãi suất tới 2-3%/năm để một công ty nhôm của TQ đầu tư 3,2 tỷ U$ xây dựng nhà máy nhôm ở Mã Lai vì hai lý do: (i)Khuyến khích việc đưa các dự án nhôm tiêu hao nhiều điện năng ra nước ngoài (trong khi TQ cũng không phải thiếu điện trầm trọng như VN); (ii) Nhà máy nhôm này (do TQ nắm không ít hơn 50%) được quyền mua toàn bộ sản lượng điện của nhà máy thuỷ diện Bakun công suất 2400MW sẽ được Mã Lai xây dựng ở tỉnh Saravac với giá bán điện chỉ có 2 cents/kWh. Dự án thuỷ điện này cũng do một tổng công ty nhà nước khác của TQ là Sinohydro xây dựng. Toàn bộ sản phẩm nhôm sẽ được bán lại cho TQ. Các tập đoàn nhôm UC Ruasal (Nga) và Alcoal (Mỹ) cũng coi việc đầu tư vào các nhà máy thuỷ điện để có được nguồn điện lớn với giá rẻ là ưu tiên số 1 trong hoạt động của mình. Toàn bộ tiềm năng về thuỷ điện của các tỉnh Tây Nguyên, nếu được khai thác hết cũng chỉ tương đương với dự án nói trên của Mã Lai.
- Nếu sau 20-30 năm nữa chúng ta mới phát triển ngành công nghiệp nhôm, thì con cháu chúng ta sẽ không “phê phán chúng ta là dốt”, như ý kiến của đ/c bí thư tỉnh Đắc Nông, ngược lại, thế hệ mai sau sẽ phải cám ơn chúng ta là đã rất thông minh, có tầm nhìn xa về khoa học công nghệ.
Nhân đây tôi xin nói rõ hơn:
+Tại cuộc hội thảo đầu tiên về bauxite ở Đắk Nông tháng 12/2007 do tỉnh Đắt Nông và TKV tổ chức, trong tham luận của mình tôi đã lưu ý đến bom Napal- là một loại bom cháy, có sức huỷ diệt cao là một phát minh của Đại học Ha Vớt Hoa Kỳ, rất có hại trong chiến tranh, nhưng rất có ích trong phát triển kinh tế.
Tỉ trọng phân bố trữ lượng bô-xít Việt Nam
theo vùng (Nguồn: TKV)
+Theo dự báo của các nhà khoa học, sau 20-30 năm nữa, trình độ khoa học công nghệ (trong đó có các công nghệ về hóa-lý) sẽ cho phép chúng ta áp dụng phát minh trên của Đại học Ha Vớt trong việc đảm bảo an ninh năng lượng. Kim loại nhôm sẽ được sử dụng để phát điện (có thể thay cho dầu mỏ, khí đốt và than đá hay uranium đang dần cạn kiệt) với hiệu suất rất cao. Theo tính toán của các nhà khoa học, để sản xuất ra 1 “đơn vị nhôm”, chúng ta cần 1 “đơn vị năng lượng” (đơn vị này hiện nay rất lớn). Nhưng sau 20-30 năm nữa, trình độ công nghệ cho phép thực hiện qui trình ngược lại, từ 1 “đơn vị nhôm” chúng ta có thể sản xuất ra được gần 2 “đơn vị năng lượng” dựa trên nguyên lý hoạt động của bom Napal (phản ứng ô xy hóa của kim loại nhôm tinh khiết cho phép chúng ta thu được một lượng nhiệt rất lớn).
+Ngoài ra hiện nay ô xít nhôm Al2O3 (là alumina- sản phẩm của các dự án bauxite Tây Nguyên để xuất khẩu) mới chỉ được dùng làm nguyên liệu thô cho ngành luyện nhôm và sản xuất một số hóa chất đơn giản khác. Nhưng trong tương lai, cũng như các loại ô xít kim loại khác sẽ được sử dụng để khử khí thải CO2 trong các nhà máy nhiệt điện để thu được khí CO (là một dạng khí cháy, có nhiệt năng cao) có thể tái sử dụng lại ngay cho chính các nhà máy nhiệt điện hay cho các lò hơi công nghiệp. Trên thế giới hiện nay đã có rất nhiều thành tựu (bản quyền và bí quyết công nghệ) trong vấn đề này (chủ yếu cũng là của Mỹ).
+Trên quan điểm khoa học và công nghệ, Đảng ta đã rất sáng suốt khi trong Báo cáo chính trị của Đại hội X đã bỏ cụm từ “
khai thác bô-xít và sản xuất alumin
” ra khỏi danh mục các sản phẩm cần được hỗ trợ đầu tư phát triển, thay vào đó, đã khẳng định “Khẩn trương thu hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện một số dự án quan trọng về khai thác dầu khí, lọc dầu và hóa dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Có chính sách hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô”. Tôi cho rằng, ý kiến của đ/c Bí thư tỉnh Uỷ Đắk Nông tại cuộc Tọa đàm là không có tính khoa học và càng không phù hợp với tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
3/Về ý kiến cho rằng công nghệ của TQ là tốt:
Tại cuộc Hội thảo do Liên hiệp các hội KHKT VN (VUSTA) tổ chức ngày 19/1/1009 vừa qua, trong Báo cáo của mình tôi đã nêu rõ một ví dụ về công nghệ lạc hậu, không hiệu quả (công nghệ luyện đồng) mà TQ mới chuyển giao cho TKV trong dự án đồng Sinh Quyền gần đây. Tôi cho rằng không cần nhắc lại.
Nhân đây tôi chỉ muốn nhấn mạnh thêm:
Những nhà máy alumina phía Nam TQ (mà TKV đã tổ chức cho một số cán bộ ngoài TKV đi thăm quan) sử dụng loại bô xít (sa khoáng) khác hẳn với bô xít của Tây Nguyên (phong hóa) về nguồn gốc. Quá trình sản xuất alumina thực chất là các quá trình hóa-lý. Việc lựa chọn công nghệ phải dựa trên kết quả phân tích về thành phần thạch học và thành phần hóa học của quặng chứ không thể sao chép “copy” và đánh giá công nghệ bằng mắt thường. Ngoài ra, chất lượng quặng bauxite của VN (tuy chưa có được đánh giá chi tiết, nhưng) căn cứ vào các thông tin hiện có, thì không cao, đòi hỏi phải tuyển để nâng cao chất lượng trước khi áp dụng công nghệ Bayer.
4/ Về ý kiến cho rằng khai thác bauxite sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và không chiếm nhiều đất canh tác của các tỉnh Tây Nguyên:
- Trước hết, về kinh tế, các nhà khoa học đều khẳng định điều ngược lại. Rất may, lần nào, theo báo cáo tại cuộc Tọa đàm của chính đ/c Hoàng Sĩ Sơn- phó Chủ tịch tỉnh Lâm Đồng, các dự án bauxite hàng năm chỉ đóng góp 120-150 tỷ đồng cho ngân sách địa phương chứ không phải 1500-2000 tỷ (được phóng đại lên 10 lần) như trả lời trên báo của đ/c Chủ tịch tỉnh Đắk Nông. Thực ra mức đóng góp này là không tương xứng so với số tiền rất lớn VN phải đi vay để đầu tư, và thấp hơn nhiều nếu chúng ta đầu tư vào mục đích khác, không phải là bauxite.
- Về diện tích chiếm đất, tuy diện tích không lớn so với toàn vùng lãnh thổ của Tây Nguyên, nhưng diện tích đất bị các dự án chiếm dụng vĩnh viễn lại là những nơi có giá trị canh tác cao, và (theo báo cáo của sở TNMT Đắk Nông) lớn hơn nhiều lần diện tích được tạo ra hàng năm (so với thành tích mở rộng khai hoang, trồng rừng) của các địa phương này.
5/Về nội dung bức thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp:
Tôi cho rằng ý kiến của đ/c Chủ tịch VUSTA (Hồ Uy Liêm) nêu trong Tọa đàm (đã không đại diện cho các nhà khoa học) là rất khiếm nhã. Tôi nghĩ cá nhân đ/c Hồ Uy Liêm cần chính thức xin lỗi Đại Tướng về lời phát biểu gây nghi ngờ nội dung bức thư.
Tôi hoàn toàn ủng hộ và thêm cảm phục Đại Tướng về bức thư đầy tâm huyết và đầy trách nhiệm
đó. Bản thân tôi đã từng làm đại diện cho Bộ Mỏ và Than của VN làm việc tại Ban Thư ký của COMECON trong cùng thời gian phía Chính Phủ VN đưa dự án bô-xít Tây Nguyên vào Chương trình hợp tác đa biên của COMECON (ngoài tôi, khi đó còn có nhiều người khác chứng kiến như các anh Dương Đức Ưng- đại diện cho Bộ Cơ khí Luyện Kim (nay là Bộ Công thương), Lê Dũng- đại diện cho UB KHKT (nay là Bộ Khoa học công nghệ) v.v.). Chúng tôi có đủ thông tin và điều kiện để tìm hiểu dự án này. Những vấn đề Đại tướng đã nêu trong thư là hoàn toàn chính xác. Khi đó (và cả bây giờ), Liên Xô và các nước thành viên COMECON rất cần bô-xít của VN để luyện nhôm cung cấp cho ngành chế tạo xe hơi, máy bay, và trang thiết bị quân sự-quốc phòng. Liên Xô (cũ) không cần chè của VN (khi đó người dân LX chỉ dùng chè của Ấn Độ hay của Srilanca), mà chỉ cần bô-xit của VN, những vẫn khuyên VN không phát triển dự án bô-xít mà phát triển các nông trường chè.
6/Về nhiều ý kiến cho rằng bài tham luận của TKV là “rất hay nhưng khó tin”.
Nhân đây, tôi cũng xin bình luận thêm như sau:
- Trước hết, có thể thống nhất một điều là: VN lần đầu tiên triển khai các dự án bauxite, chưa có kinh nghiệm thực tế, nên những vấn đề đang được nêu ra đều chỉ nằm trên giấy (kể cả nhận định của Bộ Công thương, hay cam kết của TKV), còn dừng ở mức độ lý thuyết, dựa trên các thông tin trên TG (của các nhà khoa học) đều chưa được thực tế chứng minh đúng/sai . Điều có thể ai cũng đã nhận ra là tính rủi ro (về mọi mặt: công nghệ, kỹ thuật, môi trường, an ninh, quốc phòng, v.v...) trên thực tế quá cao, còn những giải pháp mới chỉ là "khẩu hiệu".
- Bản thân tôi là một cán bộ làm việc ở TKV từ khi TKV mới được thành lâp đến nay (hiện nay tôi được giao giữ chức Giám đốc Công ty Năng lượng Sông Hồng -TKV, là chi nhánh của TKV tại Hưng Yên để phát triển bể than Đồng bằng sông Hồng), tôi cũng cho rằng những "giải pháp" của TKV không có cơ sở khoa học, mới chỉ dừng lại ở mức độ nói về vấn đề bùn đỏ (có độ pH cao), TKV cam kết là không nguy hại, có thể xử lý được. Nhưng, như trên tôi đã nêu, bùn đỏ sẽ ít nguy hiểm khi được xử lý bằng công nghệ thải "khô", còn với công nghệ thải "ướt" như TKV và các nhà thầu TQ đang áp dụng ở Tây Nguyên (chất lỏng 54,4%, chất rắn 45,6%) thì lại rất nguy hại bởi các lý do sau: (i) "Khô" có nghĩa là ít chất sút ăn da lẫn trong bùn đỏ; (ii) Nếu thải "khô", các thành phần cỡ hạt khác nhau của bùn đỏ sẽ đông cứng lại thành chất rắn, ít nguy hại nếu bị trôi lấp. Còn "ướt" thì dung dịch bùn đỏ sẽ phân ly thành nhiều pha với các cỡ hạt khác nhau, trong đó có pha cỡ hạt siêu nhỏ gồm các kim loại nặng độc hại sẽ ngấm xuống đất, còn các pha cỡ hạt lớn lại không thể liên kết lại với nhau khi gặp mưa rất nguy hiểm, dễ bị trôi lấp; (iii) Với công nghệ "khô" thì các đập chắn của các hồ bùn đỏ không phải chịu lực, chỉ có chức năng "chắn". Ngược lại, với công nghệ thải "ướt", các đập của hồ bùn đỏ (theo lựa chọn của TKV cao tới 25m, dài 282m, nằm trên độ cao 850m so với mực nước biển) sẽ giống như các đập hồ thuỷ điện, phải chịu lực do áp lực thuỷ tĩnh của bùn đỏ ướt tạo ra, nên kém an toàn.
- TKV nói sẽ rất coi trọng vấn đề xử lý vấn đề bùn đỏ theo tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên trên thực tế, vì lợi ích của chủ đầu tư, các thiết kế hồ bùn đỏ đều lấy theo tiêu chuẩn GB của TQ. Với qui mô hồ thải bùn đỏ lớn như của TKV (rộng 116ha), các nước trên thế giới phải đầu tư hàng trăm triệu US$, trong khi hồ bùn đỏ của TKV do TQ thiết kế có mức đầu tư ít hơn nhiều lần. Thực tế các dự án nhiệt điện của TKV do các nhà thầu TQ thực hiện đã cho thất, các tiêu chuẩn GB của TQ thường thấp hơn nhiều so với của các nước khác, trong khi đó các nhà thầu TQ thường hay "nói một đằng làm một nẻo", càng không ai dám tin.
- Vấn đề hoàn thổ và bảo vệ môi trường trong khai thác bauxie: mọi người đều hiểu rất rõ thực trạng môi trường của vùng Quảng Ninh hiện nay như thế nào!
- Một điều nữa không thể không làm các đại biểu nghi ngờ là: (i) Tác giả của những bài trình diền, tham luận đó của TKV là anh Nguyễn Chí Quang - người đã từng bị Thanh tra Chính Phủ yêu cầu TKV buộc thôi việc trong dịp Thanh tra CP làm việc với TVN năm 1999-2000. Sau khi bị sa thải, thời gian gần đây, anh Quang lại đích thân Chủ tịch HĐQT TKV nhận làm "cố vấn riêng" cho cá nhân Chủ tịch HĐQT. Mặc dù vậy, trong các giao dịch, anh Quang vẫn tự coi mình là cố vấn của HĐQT TKV, cũng có mặt cùng Chủ tịch HĐQT để báo cáo trong nhiều cuộc hội thảo và công khai phát biểu dưới tư cách là "đại diện cho TKV"; (ii) Các chuyên gia giỏi có kinh nghiệm và trình độ thực sự về bauxie-nhôm trước đây (khi làm việc với COMECON, như Hoàng Kim Phú, Tô Ngọc Thái, Nguyễn Hoàng Ban v.v.) thì không được TKV sử dụng, trong khi TKV lại tích cực sử dụng một kỹ sư đã về hưu là Dương Thanh Sùng - người được đánh giá (công khai tại hội thảo của VUSTA) là chỉ thuộc loại "chai lọ" trong lĩnh vực bauxite-nhôm. Chính vì sự mập mờ này đã làm cho nhiều người (ngay cả trong TKV và cả bản thân Đại Tướng) không thể tin cậy vào những gì "TKV nói".
7/ Về thái độ tiếp thu ý kiến của TKV:
Gần đây tôi nhận được công văn "MẬT" của Đảng uỷ TKV gửi cho cá nhân tôi với nột dung hình như là tôi đang bị mắc lừa các thế lực phản động hay đang chống lại nghị quyết của Đảng vì đã có những phát biểu chống lại các dự án bô-xít của TKV. Tôi rất bất bình về nội dung công văn này. TKV không những không tiếp thu ý kiến của tôi (trong khi TKV chưa có ý kiến nào để phản bác và dư luận rộng rãi đều đồng tình ủng hộ ý kiến của tôi, nhưng Đảng uỷ TKV lại có văn bản mang tính răn đe theo kiểu "cả vú lấp miệng em" như vậy là không thể chấp nhận được. Nhân đây, tôi xin chính thức báo cáo với Ban Bí thư cũng như VP TW Đảng về vấn đề này như sau:
- Từ trước khi thủ tướng phê duyệt quy hoạch bô-xít, tôi đã viết nhiều bài báo khoa học phân tích tính không khả thi của các dự án bauxite đăng trên các tạp chí của VN. Sau khi Thủ tướng ban hành Quyết định số 167/2007/QĐ-TTg ngày 01/11/2007, tôi được mời tham luận tại cuộc Hội thảo đầu tiên ở Đắk Nông (12/2007) đến nay, tôi (tuy đang hưởng lương do TKV trả) vẫn đã và đang chính thức phát biểu công khai, minh bạch ý kiến của cá nhân tôi với tư cách là một cán bộ KHKT phản đối việc triển khai các dự án bauxite trên Tây Nguyên.
- Đây không phải là lần đầu tiên tôi phải đối các việc làm của TKV hay của Bộ Năng lượng (cũ). Những ý kiến phản đối của tôi trước đây được cho là "trái" với các quyết định của TKV, và của Bộ NL đến nay đều được thời gian chứng minh là hoàn toàn đúng đắn (như việc chấm thầu không đúng của dự án điện Na Dương, việc sửa đổi hồ sơ mời thầu có lợi cho nhà thầu trong các dự án điện, việc di chuyển nhà sàng Hòn Gai ra địa điểm Nam Cầu trắng, việc gia tăng qua mức sản lượng than của các mỏ để xuất khẩu cho TQ, v.v..)
- Cũng chính vì "trung ngôn thì nghịch nhĩ" tôi đã từng "được" TKV "xử lý" theo cách áp đặt cho luân chuyển công tác theo tiêu chí việc gì đang làm tốt thì không cho làm nữa, giao cho việc mới khó hơn, để nhường chỗ cho những "trung thần" chỉ biết làm theo.
- Bản thân tôi, là một cán bộ KHKT được Đảng và Nhà nước ưu tiên cho đi đào tạo nhiều lần ở nước ngoài, là một Đảng viên ĐCSVN (tôi được kết nạp tại chi bộ Vụ Kế hoạch Bộ Mỏ và Than từ 1983), tôi luôn sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, đúng lương tri, phục vụ suốt đời cho sự nghiệp của Đảng và dân tộc, chứ không phải chỉ biết làm theo ý đồ và phục vụ cho lợi ích của một nhóm người. Bố đẻ tôi là Đảng viên, cán bộ tiền khởi nghĩa, Huân chương kháng chiến hạng Nhất và hạng Ba, Huy hiệu 60 năm tuổi đảng, Huy hiệu các chiến sĩ bị địch bắt tù đầy đã giáo dục tôi hiểu rõ thế lực phản động là ai và mình cần phải làm gì.
- Tôi không cần phải được Đảng Uỷ TKV nhắc nhở về việc tôn trọng pháp luật, trong khi TKV đã cố tình lợi dụng cơ quan ngôn luận của mình (Tạp chí Than-Khoáng sản VN) để công khai vi phạm Luật báo chí, tung tin sai sự thật, bôi nhọ danh dự của tập thể công ty do tôi phụ trách (đúng vào dịp tôi đang bận dự thảo về bauxite ở Đắk Nông)
8/ Về Hội thảo sắp tới do Chính Phủ sẽ tổ chức:
(i) Tôi cho rằng cần được chuẩn bị kỹ và phải có đủ thời lượng cần thiết, tạo được tính công khai, dân chủ, tránh hình thức vội chụp mũ;
(ii) Nội dung Hội thảo nên tập chung ưu tiên bàn kỹ về tính khả thi về kinh tế, đánh giá hiệu quả kinh tế đầy đủ; và
(iii) Để tiết kiệm thời lượng cho việc trao đổi đầy đủ có lẽ không nên mời các đối tác nước ngoài tham dự vì có nhiều vấn đề tế nhị và nhậy cảm.
Kinh nghiệm cho thấy tại hội thảo 10/2008 ở Đắk Nông vừa qua, các đối tác nước ngoài chỉ lợi dụng thời lượng của hội thảo để làm marketing và quảng bá cho bản thân họ. Còn trên thực tế họ làm như thế nào thì phía VN (Bộ Cơ khí luyện kim trước kia và TKV ngày nay) đã đi xem, thăm quan, khảo sát gần như khắp TG rồi. Nếu đã mời đối tác nước ngoài, cần mời đầy đủ cả các đối tác cũng đã từng khuyên chúng ta không nên làm ồ ạt như hiện nay (như nhà thầu của Pháp).
TS. Nguyễn Thành Sơn
Nguồn: “Báo cáo V/v làm rõ một số ý kiến tại cuộc Tọa đàm về bauxite ngày 20/2/2009” gửi: Trương Tấn Sang (UV Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư) và Ngô Văn Dụ (Bí thư TW Đảng CSVN, Chánh Văn phòng TW Đảng)
Subscribe to:
Posts (Atom)
Thật vậy, dân tộc Việt Nam hãy can đảm đứng lên để lật qua những trang sử cộng sản đẫm máu và đau thương. Đã quá trễ rồi. Ngày nào còn cộng sản, thì còn chết chóc, tù đày, tự do, nhân quyền còn bị chà đạp. |
Nhà cầm quyền cộng sản, hơn lúc nào hết, luôn buộc người dân lo nghĩ đến chuyện miếng ăn, cái mặc. Cái bụng lúc nào cũng phải cảm thấy còn đoi đói, chưa no. Và người dân thì thiếu thốn nhu yếu phẩm, lo chạy gạo từng bữa. Ðủ hôm nay thì thiếu ngày mai, hay được nồi cơm sáng, thì lại chưa có nồi cơm chiều. Cuộc đời cứ quần quật lo đói rách như thế, thì xin hỏi, còn chi thì giờ mà nhân dân nghĩ đến tranh đấu, hoặc đòi hỏi tự do dân chủ nhân quyền? |
Cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh từng dạy: “Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình thì càng ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Còn dân thì ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mà mong đợi trông cậy ở vua ở quan, giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay một người, hay một chính phủ muốn làm sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không kiểm xét, thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường. Anh chị em đồng bào ta đã hiểu thấu các lẽ, thì phải mau mau góp sức lo toan việc nước mới mong có ngày cất đầu lên nổi”. |
"The religion of the future will be a cosmic religion. The religion which is based on experience, which refuses dogmatism. If there's any religion that would cope with modern scientific needs it will be Buddhism." Albert Einstein
Tôn giáo trong tương lai sẽ là tôn giáo của vũ trụ. Tôn giáo này dựa trên kinh nghiệm và không chấp nhận chủ nghĩa giáo điều. Nếu có một tôn giáo nào tương thích với khoa học hiện đại, đó chính là Phật Giáo. |